Trường ca Thu Bồn chỉ trừ Người vắt sữa bầu trời còn
lại đều chủ yếu là có cốt truyện, chí ít cũng là có mạch truyện qua sự kiện và
dù ít dù nhiều, tất cả đều có “nhân vật”.
CHÀNG THI SĨ VIẾT TRƯỜNG CA
MAI BÁ ẤN
Trong các nhà thơ Việt Nam viết trường ca, phải công
nhận rằng Thu Bồn là nhà thơ đa tài năng nhất, ông có nhiều thành tựu trên cả
lĩnh vực tiểu thuyết, thơ và trường ca. Chính tư duy phân tích của tiểu thuyết
và tư duy tổng hợp của thơ trữ tình là nền tảng để Thu Bồn gặt hái được nhiều
thành công và có đóng góp lớn trong quá trình hoàn thiện cấu trúc thể loại trường
ca.
Ông là người có
quá trình sáng tác trường ca đều đặn nhất, trải dài suốt nửa thế kỉ từ thời chiến
sang thời bình (từ trường ca đầu tiên Bài ca chim Chơ rao xuất hiện
vào những năm 60 của thế kỉ trước, đến cả dàn ý trường ca 10 chương Những
người con của sử thi chưa kịp hoàn thành vào những năm đầu thế kỉ XXI).
Lúc còn sống, Thu Bồn có nói mình sáng tác tổng cộng 12 trường ca, nhưng đứng
trên khái niệm hẹp của lý thuyết thể loại, ta có thể dễ dàng nhận ra trên bình
diện bề mặt của cấu trúc nghệ thuật là “hình thức lớn”, thì có ít nhất 4 tác phẩm
mà Thu Bồn gọi là trường ca thực chất chỉ là những bài thơ dài. Ngay bản thân
tên gọi của 4 tác phẩm này đã chứng tỏ nó chưa đủ sức bao chứa tính “hoành
tráng, sử thi” của thể loại, cho dù, tất nhiên, tên gọi không phải là tất cả. Tiếng
hú người Diôloa (75 câu) thật ra là bài thơ về người đi săn (Diôloa = người
đi săn). Hà Nội ngày nào (128 câu) chỉ là những mảng kỉ niệm một thời. Thông
điệp mùa xuân (34 đoạn thơ) thực chất là một khúc ca thơ về công trình thủy
điện Cầu Đỏ (Đà Nẵng).
Có lẽ chỉ có Quê hương mặt trời vàng là có
hơi hướng trường ca hơn hết. Đây là bài thơ mang cảm hứng ngợi ca đất nước, song
với dung lượng 115 câu thơ tự do, bài thơ này không đủ sức làm nên tính sử thi
của trường ca, chỉ tương đương với chương Đất nước trong trường
ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, và bài thơ Đất nước của
Nguyễn Đình Thi.
Như vậy, trong sự nghiệp sáng tác của mình, bên cạnh
thơ và văn xuôi, Thu Bồn để lại 8 trường ca sáng tác trải dài trong nửa cuối thế
kỷ XX. Trường ca của ông mang tính sử thi từ thời chiến đến cuộc sống lao động
thời bình, cũng như sử thi về cuộc chiến chống bè lũ diệt chủng của nhân dân
Campuchia mà trong đó, ông đã tự nguyện làm người lính tiên phong tham gia vào
các chiến dịch của quân tình nguyện Việt Nam. Nhiều người gọi Thu Bồn là “Chàng
thi sĩ viết trường ca” cũng vì lẽ đó.
1. Bài ca chim chơ rao (1963) đóng một
mốc son chói lọi đầu tiên trong lịch sử trường ca hiện đại Việt Nam. Vừa mới ra
đời nó đã tạo được tiếng vang lớn cả trong nước cũng như trên trường quốc tế.
Là nhà thơ gắn bó máu thịt với đất nước và con người Tây Nguyên hẳn Thu Bồn đã
thấm vào máu thịt mình những tác phẩm sử thi Tây Nguyên. Trên cái nền sử thi ấy
cùng với hiện thực cuộc sống lầm than, quá trình giác ngộ theo cách mạng và cuộc
chiến đấu hi sinh to lớn của các dân tộc Tây Nguyên, Thu Bồn đã tạo nên một “sử
thi hiện đại” ngang tầm cuộc sống và chiến đấu của những người dân Tây Nguyên
kiên cường, bất khuất. Thành công to lớn của không khí sử thi hiện đại trong
trường ca này chính là do Thu Bồn đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn hai yếu tố
chính của trường ca là tự sự và trữ tình, trong đó, tác giả thực sự đã trữ tình
hóa được yếu tố tự sự khiến câu chuyện cuốn người đọc đê mê theo không phải do
nội dung cốt truyện dẫn dắt mà do sức cuốn của cảm xúc dạt dào, ồ ạt bởi nhiều
trường đoạn bi hùng bàng bạc không khí sử thi xoay quanh ba nhân vật chính Hùng
- Y Rin và A Sao. Phải công nhận rằng: sức lôi cuốn của Bài ca chim chơ
rao cho đến tận bây giờ đọc lại vẫn dạt dào xúc cảm.
2. Sau thành công vang dội của Bài ca chim
chơ rao, 13 năm sau, tiếp tục trên nền cảm hứng sử thi Tây Nguyên, Thu Bồn đã
viết Vách đá Hồ Chí Minh (1970) trong sự đan xen tuyệt vời giữa
không khí sử thi Tây Nguyên và sử thi hiện đại về một nhân vật vĩ đại nhất của
thời đại chúng ta thông qua câu chuyện dòng tên Người - Hồ Chí Minh được người
dân Tây Nguyên đục trên vách đá thách thức kẻ thù và thể hiện sự trung thành
tuyệt đối của mình với vị lãnh tụ kính yêu. Ở trường ca này, yếu tố cốt truyện
vẫn còn và xoay quanh câu chuyện tình giữa chàng trai Dang A Nghi và cô gái Dy
Mơ Thưng. Nhân vật Hồ Chí Minh chỉ hiện lên qua hành động anh dũng hi sinh đầy
kịch tính và lòng tôn thờ của những nhân vật trong câu chuyện. Cốt truyền không
hoàn chỉnh, có phần chắp nối giữa chuyện xưa và chuyện nay được cấu trúc theo
mô hình của nghệ thuật sân khấu, nhưng cái sợi dây vô hình được nối kết bởi
nhân vật ẩn mặt qua dòng chữ “Hồ Chí Minh muôn năm!” như là điểm mở nút của kịch
bản khiến Vách đá Hồ Chí Minh vẫn đảm bảo tính chỉnh thể cho một trường
ca.
3. Người gồng gánh phương Đông (1972)
cũng ngập tràn không khí sử thi cổ thông qua cuộc gặp gỡ tiền định của chàng
chim Lạc và nàng Âu Cơ để hình thành nên dân tộc. Nhưng đến trường ca này, yếu
tố cốt truyện đã nhòa dần, “nhân vật” xuất hiện không “tròn vai” mặc dầu Thu Bồn
đã chú tâm xây dựng theo mô hình cấu trúc kịch. Đó là cuộc đấu tranh, giải quyết
mâu thuẫn giữa hai phe: thiện (vợ chồng Âu Cơ) - ác (cả dòng họ của các thế lực
hắc ám, gồm: chồng: “lão đói nghèo khổ nhục”, vợ “mụ hoang vu”, con đầu “thằng
cơ cực”, cháu trai “nóng nực”, cháu gái “lạnh lùng và đám bạn bè “khổ độc” của
lão cát cứ ở từng vùng). Cuối cùng là sự chiến thắng của vợ chồng Âu Cơ, chàng
chim Lạc soãi cánh mở nước về phương Nam, băng qua dãi Trường Sơn hùng vĩ, rồi
trong cuộc chiến với lão già chàng bị lão cắn đứt một ngón tay để “máu ứa thành
những dòng kinh nhỏ”, chín ngón tay còn lại “thành chín nhánh Cửu Long sờ vào
ngực biển Đông” kéo dài từ biển đến rừng để hình thành đất nước Việt Nam cong
như chiếc đòn gánh “gồng gánh phương Đông”.
4. Đến trường ca Chim vàng chốt lửa (1973-1975)
viểt về đề tài chiến tranh chống Mỹ, yếu tố cốt truyện tiếp tục mờ dần, “nhân vật”
đã không còn tên tuổi cụ thể. “Chim vàng” và “chốt lửa” trở thành biểu tượng của
một đề tài sử thi chiến tranh. Cả trường ca âm vang chất nhạc của tiếng chim và
những âm thanh dữ dội của cuộc chiến. Không còn cốt truyện, trường ca này được
cấu trúc như một bản giai hưởng cổ điển đầy âm thanh khẳng định tiếp bước thử
nghiệm trong cấu trúc trường ca của Thu Bồn.
5. Ba dan khát được sáng tác ngay năm
đầu tiên sau hòa bình (1976) là một trường ca về cuộc hồi sinh và gian lao “xốc
vác lại giang sơn” sau cuộc chiến. Trở lại với đề tài Tây Nguyên, nhưng đây lại
là một cuộc “thử lửa” mới của Thu Bồn đối với trường ca. So với các trường ca
trước, đây là một tác phẩm khá đồ sộ (1.303 câu thơ) đan xen nhiều không gian sử
thi khác nhau của vùng đất Tây Nguyên. Ở đó, trong không gian sử thi cổ xưa, có
chuyện tình ngang trái, đau thương giữa chàng trai Bana (Kônghơrin) và cô gái
Giarai (Rơchămpa) trong sự hiềm thù giữa hai dân tộc; trong không gian Tây
Nguyên thời phong kiến, thực dân, để nối mạch cùng Tây Nguyên cổ xưa, Thu Bồn lại
tiếp tục nối mạch trường ca bằng câu chuyện tình đầy bi kịch “trong vòng vây
chánh tổng” của người con gái Giarai: Rơchăm cùng với chàng trai Bana: Kônghơrú
(bạn trai của Rơlăng - con của nàng Rơchămpa ở phần trước đang cùng làm thuê ở
đồn điền bọn da trắng). Ở đó, còn có không gian sử thi của Tây Nguyên thời đánh
Mỹ, và đặc biệt là không gian sử thi hiện tại của Tây Nguyên trong thời kỳ “lịch
sử chuyển ầm vang máy húc/ máy cạp những sườn đồi phong hóa/ trao cho vai núi
gánh công trình”... Tất cả hòa quyện một cách phức hợp theo kiểu cấu trúc điện ảnh
(mongtage) với những thước phim chuyển cảnh liên tục nối liền bằng mạch tư tưởng
về một vùng đất đai bao la hùng vĩ: Tây Nguyên.
6. Campuchia hi vọng sáng tác ở biên
giới Tây Nam năm 1978, là trường ca viết về cuộc chiến tranh tiêu trừ bọn diệt
chủng của nhân dân Campuchia và tình nguyện quân Việt Nam. Đã có sở trường về đề
tài Tây Nguyên và đề tài chiến tranh trước đó cùng với nghệ thuật cấu trúc trường
ca đã được đa dạng hóa, trường ca này tiếp tục thể hiện năng lượng thơ tích chứa
đến vỡ tung của Thu Bồn với 1.409 câu thơ và 25 đoạn thơ (viết như văn xuôi).
Vì quá đồ sộ nên Campuchia hi vọng cũng không còn cốt truyện chung mà
được sử dụng một cấu trúc tổng hợp, đưa vào trường ca nhiều câu chuyện bi hùng
với một hệ thống “nhân vật” khá đông đảo. Tất cả những thứ tình ấy đều tồn tại
dưới chế độ diệt chủng nên đầy chất bi kịch. Trường ca này còn tái hiện được
nhiều phong tục tập quán, nét đẹp văn hóa và thiên nhiên của xứ sở chùa Tháp...
Cao cả nhất là mối tình đoàn kết trong sáng, vô tư được xây dựng bằng chính máu
xương của hai dân tộc anh em. Có thể nói, với Campuchia hi vọng, Thu Bồn
làm cuộc thử nghiệm khá thành công trong việc trộn lẫn vào trường ca các thể loại
văn học nghệ thuật khác nhau, trong đó nổi bật là yếu tố kịch, văn xuôi và điện
ảnh.
7. Người vắt sữa bầu trời (1986),
quay về với đề tài Tây Nguyên trong xây dựng. Hình như cái đồ sộ sử thi với sự
hiện diện nhiều câu chuyện tự sự của Ba dan khát chưa giải toả hết cảm
xúc của tác giả đối với vùng đất này, vì thế một trường ca đậm chất trữ tình
hơn được viết như để bù đắp lại. Đây là trường ca duy nhất không hề có dấu vết
cốt truyện và “nhân vật” của Thu Bồn. Tên trường ca dù mang trường nghĩa mông
lung, nhưng khi giải mã ra, ta sẽ thấy nó đơn giản như một lời tự sự, vì “Người
vắt sữa bầu trời” không ai xa lạ mà “Chính là mặt đất”, “chính là anh là chị là
em” đang chiến đấu và lao động ngay trong cuộc sống đầy máu chiến tranh và mồ
hôi xây dựng. Cái tôi trữ tình chi phối rất lớn đến cấu trúc trường ca theo
môtip của một bản giao hưởng cổ điển gọn ghẽ. Vẫn là sự đan xen giữa chiến
tranh và xây dựng, nhưng cách miêu tả sâu sắc hơn với nhiều chiêm cảm đời thường
và những dự cảm không yên trước hiện thực mới. Hồi ức chiến tranh làm nên chất
sử thi nhưng hình như thế sự, nhân tình đã khiến nhiều đoạn thơ như chùng lại,
thủ thỉ, đúng như tự thú của chính Thu Bồn trong khúc Vĩ thanh: “Để có thể nhìn
xa vời vợi đến những ngày của thế kỉ chúng ta sự bàn giao của chiến tranh cho lời
ru bà mẹ, lời súng gươm cho lúa gạo hòa bình. Những ngôn từ xưa không còn đủ sức
nuôi nổi hình hài của nó ngay từ hồi ta thêu dệt những vần thơ”.
8. Oran bảy sáu ngọn (1980-1989) tiếp
tục mảng chủ đề về cuộc chiến tranh chống chế độ độc tài Pônpốt của nhân dân
Campuchia và quân tình nguyện Việt Nam. Đây là trường ca đồ sộ nhất trong tất cả
các trường ca của thu bồn (1.745 câu thơ và 11 đoạn thơ) và cũng là trường ca
cuối cùng trong cuộc đời của Thu Bồn. Chính vì thế, cũng như Campuchia hi
vọng ông đã dồn tâm lực lớn bằng cách huy động sự tham gia của nhiều loại
hình văn học nghệ thuật cho cấu trúc đồ sộ này không đi chệch chủ đề, đồng thời
vẫn bảo đảm được tính hấp dẫn của toàn bộ trường ca. Nếu ở Campuchia hi vọng nổi
trội lên bằng cấu trúc kịch (bi hùng kịch) thì Oran bảy sáu ngọn nổi
trội lên là lối cấu trúc điện ảnh. Thu Bồn thừa hiểu rằng chỉ có lối cấu trúc
này mới đẩy sự kiện đi nhanh theo “độ lia” của ống kính thơ. Trường ca này gồm
nhiều trường đoạn phim (cảnh di tản nhốn nháo và đầy bi thương của những người
dân Campuchia bị đuổi khỏi thành phố, không khí ngột ngạt của “Chiến khu bị bao
vây”, bước hành quân luồn rừng bí mật của những quân tình nguyện Việt Nam
“không có địa chỉ”, cảnh chạy trốn bi hài khỏi Nôngpênh của “Những ngài đại sứ”,
cảnh “Đoàn xe bò từ Cátđamôn trở về”, cảnh ăn thịt người man rợ trong “Ổ quỷ”...
) với rất nhiều số phận nhân vật... Bên cạnh những “thước phim thơ” đầy sự kiện
là những mảnh tâm tình lắng trong chiều sâu văn hóa, phong tục, nét đẹp bừng
sáng của một Campuchia hi vọng (chuyện loài hoa đu đủ “Ồkalahông”, số phận bản
sử thi “Riêmkê” vĩ đại của dân tộc Campuchia viết trên những tàu thốt nốt, một
“Đêm biển Hồ” man mác buồn vui...) có tiếng khóc (khúc Vĩ thanh chia
tay đầy lưu luyến của quân tình nguyện việt nam và nhân dân Campuchia sau chiến
thắng), có niềm vui với “Nụ cười Bayon” rạng rỡ, có mơ ước cùng “Giấc mơ
Ăngko”... Tất cả trải ra rồi nén lại theo từng trường đoạn thơ trong một mạch
tư tưởng và cảm xúc dâng tràn về cuộc chiến tranh gian lao mà vĩ đại của những
tình nguyện quân Việt Nam để đưa cả một dân tộc thoát khỏi vòng diệt chủng.
Thu Bồn là một nhà thơ sống và yêu một cách mãnh liệt,
vì thế, ngoài mảng thơ tình yêu với rất nhiều thành công, trường ca của Thu Bồn
dù đậm chất sử thi nhưng không khí sử thi luôn được lồng một cách tài tình vào
những câu chuyện tình phong phú. Trường ca Thu Bồn có sức sống với thời gian
chính là ở điểm mạnh này…
*
Nhìn chung, trường ca Thu Bồn chỉ trừ Người vắt sữa
bầu trời còn lại đều chủ yếu là có cốt truyện, chí ít cũng là có mạch truyện
qua sự kiện và dù ít dù nhiều, tất cả đều có “nhân vật”. So sánh trong nội bộ
các trường ca của Thu Bồn thì rõ ràng có chiều hướng đổi mới cấu trúc để hiện đại
hóa thể loại. Nhưng so sánh liền mạch cùng Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo thì trường
ca Thu Bồn vẫn chủ yếu còn nghiêng về tự sự.
Tóm lại, đẫm không khí sử thi, huyền thoại và chất trữ
tình bi tráng trong những chuyện tình là điểm mạnh nổi bật của trường ca Thu Bồn.
Song, dù sao, nhìn trên tổng thể, trường ca Thu Bồn vẫn còn đậm chất kể của tự
sự khiến trong một số đoạn, ông phải tốn rất nhiều những câu thơ nối mạch hơi lủng
củng, nặng nề làm giảm mất chất thơ.
Nguồn: Văn Nghệ