Có một địa chỉ đỏ, giàu tính nhân văn và ăm ắp cảm xúc
cho những ai yêu văn hóa đọc tại con ngõ nhỏ 275 đường Âu Cơ, quận Tây Hồ, Hà Nội.
Đấy chính là Bảo tàng Văn học Việt Nam.
Bảo tàng Văn học Việt Nam: Cho những ai
yêu văn hóa đọc
MỸ TRÂN
Với diện tích rộng 3.000 mét vuông, nơi đây lưu giữ,
trưng bày 40.000 hiện vật quý giá của bao nhiêu thế hệ nhà văn Việt Nam gắn liền
với lịch sử suốt chiều dài dân tộc, từ các triều đại Lý, Trần, Lê đến xã hội nửa
thực dân nửa phong kiến và thời đại Hồ Chí Minh.
Trong vô số kỉ vật ấy, nhiều kỉ vật đã có tuổi đời
hàng thế kỉ, nhiều kỉ vật theo nhà văn, nghệ sĩ bước ra từ chiến trường. Mỗi kỉ
vật là một câu chuyện, một cuộc đời, một số phận của nhà văn Việt Nam. Phần
trưng bày trong nhà là nơi giới thiệu về tiến trình lịch sử văn học Việt Nam từ
thế kỷ XI đến thế kỷ XIX. Tiếp theo là phần trưng bày, giới thiệu về các nhà
văn đoạt Giải thưởng Hồ Chí Minh...
Ở vị trí trung tâm của bảo tàng có hòn đá thiêng hình
ngọn bút được rước về từ Khu di tích lịch sử Đền Hùng - Phú Thọ, đặt trên trống
đồng Đông Sơn. Trống đồng Đông Sơn đại diện cho văn hóa Đông Sơn. Sự sắp đặt ấy
mang ý nghĩa nhắc nhở các thế hệ nhà văn, nhà thơ Việt Nam muốn viết tốt phải đặt
trên bề dày của lịch sử văn hóa dân tộc. Trên bức tường có dòng chữ trích từ
tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”.
Việt Nam có 54 dân tộc, nhưng chỉ có hơn 30 dân tộc có
chữ viết. Tại bảo tàng có trưng bày chữ Hán, Nôm cổ, chữ Quốc ngữ thể hiện trên
ván khắc, giấy dó, kim sách bằng đồng và chữ viết của các dân tộc như: chữ Nôm
của người Tày, người Dao viết trên vải, giấy dó; chữ của người Chăm viết trên vải.
Ngoài ra còn có hiện vật độc đáo có một không hai là “sách lá” được làm bằng lá
cây dân tộc Thái, Chăm và Khơ Me. Lá đủ độ dài, độ rộng, ép phẳng. Công cụ để
viết trên lá được gọi là bút lửa. Người ta dùng vật nhọn như kim hơ nóng trên lửa,
sau đó viết trên lá, rồi dùng mỡ hoặc mật cá bôi lên để chữ hiện ra, đóng thành
sách. Điều hay là lá cây này được viết hai mặt, đánh số trang, số quyển, đục lỗ
khâu lại thành sách lá. Nội dung trên sách lá ghi về lễ nghi phong tục của dân
tộc và có cả những cuốn truyện cổ tích, truyền thuyết, kinh Phật. Tuổi đời của
những bộ sách lá được xác định là hơn 200 năm.
Bước tới khu văn học qua các thời kỳ lịch sử mới thấy
bề dày văn hiến của văn học Việt Nam, đặc biệt là văn học thời Lý, Trần, Hậu
Lê. Ngoài ra nơi đây còn có nhiều tư liệu ảnh quý, đó là những bức ảnh các sĩ tử
đỗ Bảng nhãn, Thám hoa, Tiến sĩ ...
Danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Lê Quý Đôn,
Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều có hiện vật trưng
bày và giới thiệu tại đây. Chiếc án thư của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đậm mầu
thời gian, xưa cũ. Trong cuộc đời nhiều biến cố thăng trầm, đại thi hào đã sử dụng
chiếc án thư 10 năm khi sống ở quê vợ Thái Bình vào cuối thế kỉ XVIII.
Tại khu trưng bày tầng 2 của bảo tàng, du khách sẽ được
chiêm ngưỡng nhiều tư liệu văn học gắn liền với những tên tuổi lớn của Việt Nam
đầu thế kỉ XX là các chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… và các
tác giả văn học hiện thực phê phán như: Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng,
Nam Cao… Vũ Trọng Phụng sống đời viết văn vỏn vẹn 10 năm, ông mất năm 27 tuổi.
Trước khi mất, ông nằm trên giường bệnh nói với nhà văn Vũ Bằng (lúc đấy là Thư
kí tòa soạn của Hà Nội Tân văn): “Nếu có miếng bít tết thì tôi đã không phải chết
khổ chết sở như thế này”. Ông có di sản văn chương đồ sộ, nhưng bản thân lại
rơi vào bi kịch vô cùng đáng thương là chết vì đói, vì lao lực.
Chúng tôi bị thu hút bởi những hiện vật của cặp vợ chồng
nổi tiếng Lưu Quang Vũ - Xuân Quỳnh với chiếc bàn làm việc cũ kĩ, với giá sách,
bản thảo viết tay, radio và những vật dụng sinh hoạt hàng ngày… Và cả hiện vật
của người cha Lưu Quang Vũ là Lưu Quang Thuận cũng có mặt trong không gian này.
Những cái tên quen thuộc với độc giả cũng lần lượt xuất
hiện tại khu trưng bày của bảo tàng: Nhà văn Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Khải, Thế
Lữ, Anh Đức, Nguyễn Văn Bổng… Các nhà văn - chiến sĩ đã để lại cho Bảo tàng văn
học những hiện vật giá trị là những cuốn sổ nhỏ hơn lòng bàn tay viết bằng nhiều
loại bút khác nhau, từ bút bi, bút mực, bút chì trên những trang giấy bạc mầu. Ở
đây còn có sự hiện hữu của những tài năng văn chương lớn như: Nguyễn Tuân, Thế
Lữ, Nguyễn Huy Tưởng, Xuân Diệu, Tố Hữu, Nguyễn Xuân Sanh, Ngô Tất Tố, Hoài
Thanh… Và thế hệ sau này là Nguyễn Khắc Phê, Nguyễn Khoa Điềm, Thu Bồn, Giang
Nam, Phạm Tiến Duật…
Tôi thật sự ấn tượng trước chiếc áo khoác để chống chọi
với mùa đông giá lạnh của nhà văn Nguyễn Tuân, với chiếc ba toong thân thuộc vi
vu cùng ông đi khắp các cung đường Tổ quốc; chiếc xe đạp xưa cũ đã đồng hành
cùng nhà thơ Tú Mỡ suốt hành trình thời gian khi ông sống; viên gạch nhà tù Lao
Bảo nơi nhà thơ Tố Hữu bị giam năm 1939; bản thảo viết tay tập thơ “Mây đầu ô”
của nhà thơ Quang Dũng và chiếc áo len, chăn len đã sờn cũ của nhà thơ được xếp
ngay ngắn, trong không gian riêng. Gần đó là chiếc máy đánh chữ của nhà văn Hồ
Phương; mũ, bị cói, và cây đàn tỳ bà của nhà thơ Phùng Quán; bi đông của nhà
thơ Giang Nam được sử dụng ở chiến trường miền Nam…
Hàng trăm hiện vật của các nhà văn, nhà thơ Việt Nam
hiện ra trước mắt du khách, quá khứ - hiện tại đan xen. Trong không gian đặc biệt
ấy, mỗi hiện vật đều là một câu chuyện sống động, thể hiện tinh thần sáng tác của
các nhà văn, nhà thơ ở từng giai đoạn lịch sử của đất nước.
Ở một không gian khác là câu chuyện của nhà thơ Hữu
Loan với bản thảo viết tay “Màu tím hoa sim” được đóng khung trang trọng. Cạnh
đó là bức tượng khắc hoạ nhà thơ Hữu Loan với đóa hoa sim. Nhà thơ Hữu Loan có
hai bài thơ nổi tiếng, bài “Màu tím hoa sim” viết cho người vợ đầu - bà Nguyễn
Thị Minh mất khi 17 tuổi; bài “Hoa lúa” viết cho người vợ thứ hai.
Ở Bảo tàng Văn học, đã có nhiều nhà văn là những chiến
sĩ cách mạng từng lăn lộn trên chiến trường trong cuộc kháng chiến của dân tộc,
như nhà thơ Phạm Tiến Duật trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại. Không chỉ vậy,
chúng ta còn được “tiếp xúc” với nhà văn Trần Đăng, người binh nhì đổ máu trên
chiến trường và trở thành liệt sĩ năm 1949. Câu chuyện hy sinh của nhà văn Trần
Đăng cũng khiến du khách mang nhiều suy tư. Trong quá trình chiến đấu, ông đã
phải đi từ Lạng Sơn, vòng sang Trung Quốc tìm liên lạc với quân giải phóng. Sau
khi hy sinh, ông được đồng đội đánh dấu nơi chôn cất bằng viên gạch khắc tên Trần
Đăng. Mãi tới năm 1990, mộ của ông mới được tìm thấy và quy tập về nghĩa trang
Tây Tựu, Hà Nội.
Thêm một câu chuyện xúc động của nhà thơ Thanh Quế
liên quan đến hộp đựng đạn. Năm 1971 nhà văn - chiến sĩ Chu Cẩm Phong trước khi
mất đã để lại tập bản thảo “Nhật ký chiến tranh” cho nhà văn Thanh Quế. Nhà văn
Thanh Quế dùng hộp đựng đạn là chiến lợi phẩm để đựng bản thảo của nhà văn Chu
Cẩm Phong. Bản thảo quý giá đã được ông giữ như một vật báu. Vùng Quảng Nam -
Quảng Ngãi mưa rừng, lũ xoáy, có những lúc ông phải buộc đá dìm xuống dưới để
hòm đựng đạn không bị trôi. Sau này ông bảo, ông có thể hy sinh nhưng bản thảo
thì không thể mất. Sau ngày thống nhất đất nước, bản thảo của nhà văn Chu Cẩm
Phong và hòm đạn đã được đưa về lưu giữ.
Từng hiện vật trong Bảo tàng Văn học Việt Nam là một
câu chuyện sống động, cho ta thấy sự phát triển của một nền văn học đa dạng,
nhiều màu sắc, gắn với lịch sử thăng trầm của đất nước. Đây là địa chỉ văn hóa
hấp dẫn dành cho công chúng yêu văn chương và muốn tìm hiểu về văn hóa, văn học
Việt Nam.
Nguồn: Văn Nghệ Công An