Năm 1294 tiễn hai sứ giả Lý Trọng Tân và Tiêu Phương
Nhai về cố quốc, vua Nhân Tông viết bài thơ "Tống Bắc Sứ Lý Trọng Tân,
Tiêu Phương Nhai" bày tỏ mong ước bang giao hòa hảo lâu dài giữa hai nước.
THƠ TIẾP SỨ, THƠ ĐI SỨ
NGUYỄN THANH TÚ
Sử sách ghi lại trong một cuộc lui quân, vua Trần Nhân
Tông cho khắc hai câu thơ vào đuôi thuyền rồng: "Cối Kê cựu sự quân tu ký,
Hoan Ái do tồn thập vạn binh" (Cối Kê chuyện cũ, ngươi nên nhớ/ Hoan Ái vẫn
còn mười vạn quân). Hoan Ái tức Thanh Hóa, Nghệ An ngày nay.
Điển tích "Cối Kê" có từ thời Xuân Thu Chiến
Quốc kể Việt Vương Câu Tiễn lui quân về Cối Kê đợi thời cơ đánh Ngô vương Phù
Sai. "Ngươi" (quân) ở đây là đại từ chỉ thị rộng rãi không nên hiểu
chỉ là quân sĩ nhà Trần mà còn chỉ cả quân Nguyên. Ý thơ bật ra: ngày xưa Câu
Tiễn ít quân mà lui binh thành công lớn, ngày nay "ta" còn cả mười vạn
binh (chưa cần đến) thì việc lui binh sẽ thành công bội phần. Không chỉ tăng cường
nhuệ khí quân ta, còn là lời cảnh báo cho kẻ xâm lược - những "sứ giả"
gây chiến tranh hãy coi chừng!
Không chỉ là vị vua tài năng, anh minh, Trần Nhân Tông
còn là nhà ngoại giao xuất sắc biết thu phục, chinh phục đối phương bằng lập
trường hòa bình kiên định, bằng sự mềm dẻo biết người biết mình và một hồn thơ
tinh tế. Trong tiệc chiêu đãi Trương Hiển Khanh sang sứ năm 1291 vua Trần làm
bài thơ "Quỹ Trương Hiển Khanh xuân bính" (Tặng bánh ngày xuân cho
Trương Hiển Khanh): "Giá chi vũ bãi, thí xuân sam/ Huống trị kim triêu tam
nguyệt tam/ Hồng ngọc đôi bàn xuân thái bính/ Tòng lai phong tục cựu An Nam"
(Múa giá chi rồi thử áo xuân/ Hôm nay hàn thực, buổi thanh thần/ Bánh rau đầy đặn
như hồng ngọc/ Nước Việt, tục này theo cổ nhân - Trần Lê Văn dịch).
"Giá chi" là điệu múa cổ truyền Đại Việt để
tiếp "sứ", tức đón tiếp bằng những gì mình có, mang bản sắc của mình.
Nhân tiết hàn thực còn tiếp đãi bằng bánh rau xanh "thanh thần", nhẹ
nhàng, tinh khiết. Người Việt trọng ứng xử tinh thần hơn trọng vật chất (Cách
cho quý hơn của cho), chỉ là bánh rau thôi nhưng được trình bày, trang trí rất
đẹp "như hồng ngọc". Lối đón tiếp lịch sự, trọng thị, chân thành ấy
đã thu phục sứ giả.
Trong bài thơ họa đáp lại, Trương Hiển Khanh viết thật
lòng: "An Nam tuy tiểu văn chương tại/ Vị khả khinh đàm tỉnh để oa"
(Nước An Nam tuy nhỏ nhưng đã có văn chương/ Không thể nói nông cạn, xem thường
họ là ếch ngồi đáy giếng). Cũng không nên hiểu "văn chương" ở đây chỉ
thơ văn mà còn là văn hóa, văn hiến, cách đối nhân xử thế…
Năm 1294 tiễn hai sứ giả Lý Trọng Tân và Tiêu Phương
Nhai về cố quốc, vua Nhân Tông viết bài thơ "Tống Bắc Sứ Lý Trọng Tân,
Tiêu Phương Nhai" bày tỏ mong ước bang giao hòa hảo lâu dài giữa hai nước.
Lời lẽ khiêm nhường kín đáo nhắc nhở vương triều tránh xảy cảnh đao binh để dân
hai nước được an hưởng thái bình: "Khảm khảm linh trì noãn tiễn diên/ Xuân
phong vô kế trụ quy tiên/ Bất tri lưỡng điểm thiều tinh phúc/ Kỷ dạ quang mang
chiếu Việt thiên" (Sâu thẳm Linh Trì nồng rượu ấm/ Gió xuân không giữ được
người về/ Chẳng hay sao sứ hai ngôi phúc/ Còn chiếu trời Nam mấy khắc khuya -
Trần Lê Văn dịch).
Bối cảnh của chuyến bang giao này là Hốt Tất Liệt chết,
Nguyên Thành Tông lên thay xuống chiếu bãi bỏ cuộc "Nam chinh" lần thứ
tư dù đã cho binh mã áp xuống gần biên giới phía Bắc Đại Việt. Triều Nguyên cử
sứ sang báo tin vua mới lên ngôi và tuyên tờ chiếu hòa bình. Như vậy đoàn sứ
này hoàn toàn "vô tư".
Rất hiểu ý vua Trần, cả Lý Trọng Tân và Tiêu Phương
Nhai đều có thơ họa. Bài của Phương Nhai đặc sắc hơn, ứng đối tức thì nguyên vần
ngay trong bàn tiệc, có câu: "Tiệc khách mưa xuân lấm tấm rơi/ Đường về giục
giã ngựa tra roi". Chỉ tiếc hai câu sau thất lạc một vài chữ Hán nhưng vẫn
đủ hiểu ý: "Từ nay Nam thổ thêm vui vẻ/ Nghiêu Đế mừng chung một cõi trời".
Đúng là một cuộc vui văn chương kẻ tung người hứng hân hoan, ấm áp. Bài họa của
Phương Nhai cho thấy đó là người thực tài, sắc sảo. Một sứ giả như vậy cho thấy
nhà Nguyên đã rất nể trọng triều Trần.
Tài ứng đối xuất sắc của vua Trần Nhân Tông thể hiện
qua bài "Họa Kiều Nguyên Lãng Vận" (Họa vần của Kiều Nguyên Lãng).
Năm 1301, Kiều Nguyên Lãng chức Thị lang bộ Lễ làm Chánh sứ nhà Nguyên sang nước
ta. Trong buổi tiệc vua Trần chiêu đãi đưa tiễn, khách Kiều Nguyên Lãng làm bài
thơ "giao đãi". Vua Trần liền có bài họa lại.
Thơ họa nghĩa là thơ đáp từ lại bài thơ của người vừa
viết. Cũng là một cách đối nhưng bằng thơ. Mà thường tình thì "xuất đối dị"
(ra vế đối thì dễ) còn "đối đối nan" (đối lại thì khó). Bài thơ cho
thấy tác giả mang tầm một nhà thơ lớn: "Như mây bay, nhẹ bước về Nam/ Mùa
Xuân, mai lác đác khoe mầm/ Vua hiền đức lớn, thương trăm họ/ Trai tài chí cả,
nợ muôn dân/ Tuyết rung đầu ngựa, niềm lưu luyến/ Mắt chứa non sông, nhịp lắng
thầm/ Ngày mai sóng nước sông Lô tiễn/ Bồ đào cạn chén ấm lòng trần".
Hai câu "Vua hiền đức lớn, thương trăm họ/ Trai
tài chí cả, nợ muôn dân" không chỉ là "ngoại giao" ca ngợi vua
triều Nguyên còn là một cách đưa ra quan điểm: người làm vua phải có "đức
lớn", có tình thương dân, có "chí cả" để tất cả vì dân. Các câu
sau cho thấy một hồn thơ phóng khoáng, thành tâm, đĩnh đạc, đầy niềm tin vào
tình người, vào hòa bình viên mãn.
Là một nước nhỏ luôn chịu sự đe dọa bành trướng, xâm
lược của đế quốc phương Bắc nên công việc đi sứ của các triều đình phong kiến
Việt Nam đều vì mục đích hòa bình. Chính sử cũng hầu hết nói về các cuộc đi sứ
sang Trung Hoa với sứ mệnh bảo vệ cương vực, "quốc thổ" nên mỗi chuyến
đi thành công sẽ "mang sức mạnh của hàng chục vạn quân". Được chọn đi
sứ là một vinh dự lớn nhưng trách nhiệm cũng hết sức nặng nề, phải tài năng, học
vấn sâu rộng, mưu trí, ứng đáp giỏi, đặc biệt phải bản lĩnh.
Lịch sử ngoại giao Việt Nam mãi tỏa sáng vế đối bằng
vàng: "Đằng giang tự cổ huyết do hồng" tương truyền của Giang Văn
Minh (cũng có thể là của các sứ giả Nguyễn Tuấn, Phùng Khắc Khoan, Trần Tụy...
Gắn liền với Giang Văn Minh là một câu chuyện mang tính bi tráng nên hầu hết các
giả thuyết nghiêng về vị sứ này).
Giang Văn Minh (sinh 1573) đỗ Thám hoa khóa Mậu Thìn
(đời Vua Lê Thần Tông năm 1628). Năm 1637, Vua Lê cử ông đi sứ Trung Hoa. Truyện
kể khi vào yết kiến, Vua Minh thử tài bằng vế đối: "Đồng trụ chí kim đài
dĩ lục" (Cột đồng đến nay đã phủ kín rêu phong). Vế đối ngạo mạn, nhắc đến
việc Mã Viện sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã cho dựng cột đồng
khắc "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" (Cột đồng gãy, dân Giao Chỉ diệt
vong). Giang Văn Minh khẳng khái đối lại: "Đằng giang tự cổ huyết do hồng"
(Sông Bạch Đằng từ ngàn xưa máu vẫn còn đỏ). Vế đối đanh thép đầy khí phách anh
hùng thể hiện lòng tự hào dân tộc, nhắc kẻ xâm lược nhớ lại ba lần sông Bạch Đằng
nhuộm máu kẻ thù phương Bắc: Ngô Quyền (năm 938), Lê Đại Hành (năm 981), Trần
Hưng Đạo (năm 1288).
Lộ ra bộ mặt hèn hạ vua Minh sai quân lính mổ bụng ông
xem "sứ thần An Nam to gan lớn mật thế nào". Sau đó lại làm vẻ
"đạo đức giả", vua Minh lại khen ông là người tiết tháo rồi sai lấy
thủy ngân ướp xác, cho ngậm nhân sâm, đưa thi hài vào quan tài giao cho phái bộ
nước Nam chuyển về nước. Đích thân vua Lê về quê ông dự lễ an táng và tặng mấy
chữ: "Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng" (Đi sứ không
làm nhục mệnh vua, đáng là bậc anh hùng thiên cổ). Hơn mọi bài thơ, câu chuyện ấy
trở thành một tráng ca về tinh thần tự tôn, tự hào dân tộc!
Hầu hết các sứ thần của ta cũng đều là nhà thơ. Đến đất
nước xa lạ, đẹp đẽ nhưng tâm hồn vẫn hướng về quê nhà. Nguyễn Trung Ngạn
(1289-1370) đỗ hoàng giáp đời vua Trần Anh Tông, năm 28 tuổi đi sứ nhà Nguyên.
Ông có bài "Quy hứng" nổi tiếng: "Lão tang diệp lạc tàm phương tận/
Tảo đạo hoa hương giải chính phì/ Kiến thuyết tại gia bần diệc hảo/ Giang Nam
tuy lạc bất như quy" (Dâu già lá rụng tằm vừa chín/ Lúa sớm hoa thơm, cua
đang lúc béo/ Nghe nói ở nhà, nghèo vẫn tốt/ Đất Giang Nam tuy vui chẳng bằng về
nhà). Bài thơ là tiếng nói của nỗi nhớ, của tình yêu quê hương da diết. Quê
hương hiện lên là bãi dâu, là nong tằm, là cánh đồng lúa, là con cua. Bình dị,
thân thuộc mà chất chứa tình cảm. Một vị đại quan mà có thi liệu thơ chân quê
như vậy đủ nói được cái tình nồng nàn, đằm thắm với đất nước nguồn cội!
Có cả một đội ngũ tác giả thơ đi sứ, ngoài các tên tuổi
kể trên còn Trần Lư, Nguyễn Tông Khuê, Nguyễn Công Hãn, Nguyễn Du, Nguyễn Kiều…
Được tắm mình trong không gian văn hóa khác, nhưng tình quê, cảnh quê thì thăm
thẳm da diết lại sáng tác trong một trạng thái đặc biệt nên thơ của họ tỏa ra
thứ hương sắc rất riêng.
Nguồn: Văn Nghệ Công
An