Cuốn
sách cung cấp nhiều tư liệu quý để chúng ta hiểu một nhà văn đã sống, đã tích
lũy, đã mơ ước, đã viết như thế nào, đã “lên bờ xuống ruộng” ra sao
THÚ VỊ BẢY NỔI BA CHÌM KIỂU NGUYỄN BẮC SƠN
VŨ NHO
Nguyễn
Bắc Sơn là một hiện tượng văn chương độc đáo. Nói thế có quá không? Thưa không.
Bởi vì mãi đến năm 1998, khi đã 57 tuổi, anh mới trình làng tập truyện ngắn đầu
tiên. Khi được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam là khi anh đã về hưu được hơn
một năm, vì đã 61 tuổi. Chỉ 4 năm sau khi in tập sách đầu đã được vào Hội.
Chưa
hết. Từ khi in tập đầu đến khi in hồi kí, nhà văn đã kịp sản xuất và công bố 24
cuốn truyện ngắn, tùy bút, bút kí, tiểu thuyết và cuốn thứ 25 Bảy
nổi ba chìm 496 trang khổ to 15 x23 cm chữ cỡ vừa. Chưa hết,
nhà giáo, nhà quản lí (chức bé thôi - Trưởng phòng) lĩnh 9 giải thưởng to đùng,
đặc biệt là giải tiểu thuyết danh giá của Hội Nhà văn Việt Nam. Nguyên những
chuyện đó đã hứa hẹn hồi kí của Nguyễn Bắc Sơn chắc chắn sẽ thú vị.
Tôi đã đọc một số hồi kí của
nhà văn, nhà chính trị. Sức hấp dẫn của loại văn này trước hết là độ tin cậy,
tính trung thực. Bạn đọc muốn biết hoàn cảnh lịch sử, sự kiện xảy ra với những
ai, kết quả thế nào? Người viết hồi kí đã suy nghĩ thế nào, xử lí ra sao, kết cục?
Một vài người viết khi tuổi đã cao, trí nhớ giảm sút; lại có người đưa sự kiện,
nhưng người trong cuộc thì đã mất, bạn đọc không thể kiểm chứng được. Chính
việc thiếu chính xác do trí nhớ, việc không kiểm chứng được đã làm giảm tính
thuyết phục của tác phẩm.
Với nhà văn Nguyễn Bắc Sơn,
đây không chỉ là dạng hồi kí thuần túy. Tôi cho rằng đây là TỰ TRUYỆN của tác
giả viết khi tuổi đã cao, nhưng trí nhớ vẫn hoàn toàn minh mẫn. Mặt khác tất cả
các chuyện được kể đều là chuyện của nhà văn với các thành viên gia đình, bạn
bè, đồng nghiệp, học sinh cũ… Không có “sự kiện” gì to tát, lớn lao. Tôi có
biết một số nhân vật như con gái chị Vĩnh Nga, anh Kim Hệ nhà ở 5 Quang Trung
(cùng cơ quan Vụ Giáo dục trung học), anh Đinh Văn Định ở Thái Nguyên, em trai
anh Đinh Quang Ấn… Tôi thấy tác giả Bắc Sơn kể chuyện về họ rất trung thực và
sinh động. Đấy là cái duyên trời phú cho anh.
Vấn đề không phải là Hồi kí
thuần túy, mà là tự truyện. Vì vậy truyện có sự hấp dẫn riêng của nó. Và độc
đáo của hồi kí này chính là nó gồm hàng loạt những truyện trong đời sống thường
nhật, đời sống giáo dục, đời sống văn hóa và đời sống văn chương… Cũng là độc
đáo khi người viết hồi kí thường xưng tôi, hoặc kể lại ở ngôi thứ ba “biết
tuốt”. Còn nhà văn Bắc Sơn thì xưng “chú”. Vì anh vốn là thành viên út ít của
Đoàn thiếu nhi nghệ thuật Lưu Hữu Phước từ thời kháng chiến chống Pháp mà khi
tham gia mới 9 tuổi (năm 1950, phải khai tăng 1 tuổi). Nay anh làm Trưởng ban
liên lạc gồm 11 người và đã viết cuốn Đoàn thiếu niên nghệ thuật do Bác Hồ
đặt tên (NXB Quân Đội Nhân Dân, 2019).
Nhà văn có vẻ hơi phàn nàn về
tiểu thuyết Gã Tép riu: “16 báo in, một báo hình (chuyên mục
mỗi ngày một cuốn sách VTV1), không kể báo điện tử không theo dõi được, tịnh
không nhắc đến tính tự chuyện của Gã tép riu” (tr.424). Nhưng
không thể trách các tác giả. Vì dù các truyện có thật 100% nhưng đã được tiểu
thuyết hóa rồi. Gã tép riu đó nếu có những gì liên
quan thì chỉ là “yếu tố” có tính tự truyện, chứ không phải là TỰ TRUYỆN. Chính
vì lí do đó mà mới còn đất cho hồi kí TỰ TRUYỆN này. Tôi cũng không đồng tình
khi ai đó cho rằng “hồi kí là tập văn để tác giả nói thêm cho rõ về
mình…”. Với ai đó thì đúng. Còn với Nguyễn Bắc Sơn thì không. Đây là một tác
phẩm độc lập, có giá trị như mọi tác phẩm khác của nhà văn, thậm chí còn hơn
nữa… Tác phẩm này cho biết Nguyễn Bắc Sơn thế nào và tại
sao Nguyễn Bắc Sơn?
Nguyễn Bắc Sơn tự nhận “Không
có chí làm quan, không có gan làm giàu”. Bởi thế mà chức vụ cao
nhất bên Giáo dục là Phó hiệu trưởng cấp 3 mà giờ là Trung học phổ thông (Dân
gian cười rằng phó có như không). Bên văn hóa là Trưởng
phòng của Sở. Có thể gọi là quan đấy, nhưng tác giả tự nhận là “đầu binh cuối
cán” thôi!
Nhưng Nguyễn Bắc Sơn vừa có
gan, vừa có chí làm nhà báo, nhà văn. Anh tự đánh giá “Chỉ miệt mài chữ nghĩa, lại hay quan
sát tỉ mỉ chi tiết, thích tò mò khám phá, không ngờ đó lại là phẩm tính cần
thiết của một nghề - không, hai nghề: viết báo, sau đó là viết văn”
(tr.48).
Một con người bình thường, tự
nhận là tép riu, nhưng là người sống nghiêm túc, kỉ luật, không ai có thể chê
trách. Tạt về nhà đêm 30 Tết, giữa thời buổi chiến tranh, nhưng vẫn dứt áo ra
đi vì tôn trọng kỉ luật quân đội. Vì thể thủ trưởng cũng tôn trọng người lính
mang một ba lô tiền cho đơn vị có mặt sáng mùng Một Tết… Không hiếm những đoạn
vui khi tác giả khá hài hước. Ví dụ vừa khoe, lại vừa tự diễu mình về chuyện
“nghiện”:
“Hơn sáu mươi năm rồi như vẫn còn dư
vị trên đầu lưỡi (ăn xu hào thái chỉ xào với trứng – VN chú) Bởi nó là chỉ dấu
khi lần đầu tiên nhìn thấy em - mối tình đầu cũng là mối tình cuối để bây giờ
80 tuổi vẫn không nghiện rượu, bia, thuốc lá, chè, cà phê. Không xổ số, không
lô đề, cờ bạc. Chỉ nghiện em - vợ chú bây giờ. Việc này hơn nửa thế kỉ nay, em
là nhân chứng” (tr.184). Vâng, nghiện thì có cai lắm.
Ấy vậy mà anh chàng nghiện Bắc Sơn vẫn đủ lí trí, nghị lực để cai, để vợ đi
chuyên gia nước ngoài cứu nhà… Dù sau này anh tự đánh giá là một sai lầm không
sửa chữa được…
Cái anh giáo cấp 3 tưởng hiền
lành nhưng cũng rất đáo để. Gặp lại người cũ (một anh bánh mì bình phương)
giờ làm Hiệu trưởng, chào hỏi, có Quyết định nhưng không chìa ra. Rồi không bắt
tay, đi thẳng. Gặp Trưởng phòng Tổ chức anh phân bua: “Tôi không xin về gần với bất kì giá
nào… Về đấy để làm việc dưới quyền một Hiệu trưởng như thế thì thà không về còn
hơn […] Anh có biết tôi với ông ấy từng cùng một phòng ở Trường Sư phạm Trung
cấp không? Và tôi từng dạy ông ấy học đấy ạ!” (tr.210)… Cái chi
tiết này không có gì lớn, nhưng tôi rất chú ý, vì nó liên quan đến tính cách,
đến nhân cách của Nguyễn Bắc Sơn. Ấy là khi Giám đốc Sở Văn hóa Hà Nội về hưu. “Tân
quyền Giám đốc bảo: “Bác Bắc Sơn gặp tôi có việc!”. Không đợi mọi người ra khỏi
phòng, mặt đối mặt, nói ngay:
- Tôi
biết bác là người của bác Vĩnh Cát. Tôi cũng biết bác có ý định xin đi…
Cũng
trả lời ngay, không chậm một giây:
- Anh
Vĩnh Cát xin tôi về đây. Nhưng tôi không phải là người của anh ấy mà là người
của công việc. Tôi có ý định xin đi, nhưng chưa có chỗ phù hợp. Khi nào thích,
tôi sẽ đi!” (tr.357)
Thật tự tin và đường hoàng.
Nhà văn là người của công việc. Chính vì làm tốt công việc và chức trách của
mình, đặc biệt là giải quyết vấn đề “xin họp báo” một cách có lí có tình, đúng
luật. Với một quan chức cỡ Phó thủ tướng và con trai cụ Trịnh Văn Bô thì khá
đơn giản. Gay cấn và thú vị nhất là trả lời đơn xin họp báo của ông P.Q.D,
người đại diện cho làng Tử Dương, tục gọi làng Tía (tr.343-344). Nhân chuyện
chuyên môn, phải đọc kĩ Hiến Pháp để xem công dân có quyền biểu tình không, thì
lại phát hiện sách Hiến Pháp nhà in đóng lầm tay sách. Thế là lại thu hồi tất
cả các bản in sai…
Không phải ngẫu nhiên mà ông
Lê Xuân Tùng, Bí thư thành ủy Hà Nội đưa Nguyễn Bắc Sơn vào tổ “Biên tập văn
kiện Đại hội Đảng thành phố lần thứ XII” (tr.347-350).
Cuốn sách chỉ có một chương
ngắn vỏn vẹn 42 trang nói về những người bạn văn chương. Nhưng ở đây cho thấy
tấm lòng của Nguyễn Bắc Sơn với bạn và bạn với Nguyễn Bắc Sơn. Mức độ đậm nhạt
khác nhau, nhưng những cái tên trong phần này đều được nhà văn nhắc đến với tất
cả sự trân trọng, mến yêu của những người cùng làm công việc chữ nghĩa.
Có thể nói cuốn tự truyện hồi
kí của Nguyễn Bắc Sơn là một cuốn sách thú vị, hấp dẫn. Cuốn sách cung cấp
nhiều tư liệu quý để chúng ta hiểu một nhà văn đã sống, đã tích lũy, đã mơ ước,
đã viết như thế nào, đã “lên bờ xuống ruộng” ra sao. Nó sẽ có ích cho các nhà
nghiên cứu, cho bạn đọc. Đặc biệt là nếu có thời gian, ta hãy đọc cuốn sách này
như lời khuyên của nhà văn đàn anh Ma Văn Kháng “cần phải đọc nhẩn nha, đọc không vội
vàng, vừa đọc vừa thưởng thức, vừa ngẫm ngợi suy xét” (tr.417).
Chắc chắn là sẽ tìm thấy thêm nhiều điều hấp dẫn và thú vị.