Nhà phê bình bản lĩnh và cá tính
HOÀI NAM
Trước năm 1945, thi sỹ Nguyễn Vỹ và phê bình gia
Trương Tửu (1913-2023) là hai người bạn đặc biệt thân thiết trong làng văn làng
báo Việt Nam (nếu không có Trương Tửu, chắc chắn Nguyễn Vỹ sẽ không có cội nguồn
cảm hứng để viết được thi phẩm Gửi Trương Tửu – một bài thơ mà theo
Hoài Thanh đánh giá, “mới thực là kiệt tác của Nguyễn Vỹ”).
Nhớ về bạn văn Trương Tửu, Nguyễn Vỹ có những nhận định
rất thú vị: “Trương Tửu có khướu ngôn ngữ và lý luận... Anh là một nhà toán học
chống giáo lý, đi tìm một bài toán cho nhân sinh với những công thức do anh tự
chế biến ra, không theo công thức điển hình nào cả. Và không bao giờ anh đúng,
ít khi anh nói phải, nhưng luôn luôn anh có lý... Với anh, sai lầm chống chân
lý, và luôn luôn sai lầm thắng chân lý”. Đọc lại các công trình phê bình văn học
của Trương Tửu, đặt chúng trong bối cảnh của nền phê bình văn học Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XX, mới thấy: hóa ra cái nhận định tưởng như... “tréo cẳng ngỗng” ấy
của Nguyễn Vỹ là có cơ sở. Từ xuất phát điểm “tri kỷ tương giao”, ông đã “bóc”
ra được phần nào cá tính độc đáo và bản lĩnh cứng cỏi của nhà phê bình văn học
Trương Tửu.
Năm 1942, với bút danh Nguyễn Bách Khoa, Trương Tửu đã
cho công bố liền hai cuốn sách: Nguyễn Du và Truyện Kiều và Văn
chương Truyện Kiều. (Mười lăm năm sau ông còn trở lại với kiệt tác văn học này
bằng công trình Truyện Kiều và thời đại của Nguyễn Du). Ngay lập tức, hai
cuốn sách ấy làm văn đàn Việt Nam nổi sóng. Bởi, suốt hơn một trăm năm kể từ
khi Đoạn trường tân thanh xuất hiện, người Việt Nam ai nấy đều say mê
thưởng thức Truyện Kiều, kính phục văn tài Nguyễn Du và cảm thương trước cuộc
đời ba chìm bảy nổi của kiều nữ họ Vương (Thảng hoặc cũng có những tranh luận về
chuyện Thúy Kiều là người “trung hiếu tiết nghĩa” hay là kẻ “tà dâm”. Nhưng
trong những trường hợp như vậy, Truyện Kiều chỉ là cái cớ cho các bên
“tham chiến” mượn để bộc lộ quan điểm chính trị - đạo đức của mình mà thôi). Thậm
chí có người còn đề cao Truyện Kiều đến mức coi đó là “thánh thư”, là
“kinh phúc âm” của người Việt.
Vậy mà với Trương Tửu, thì tác giả của cuốn thánh thư ấy
là một “con bệnh thần kinh” thuộc loại “căn tạng suy nhược do xúc cảm quá độ”.
Nhân vật trung tâm của cuốn thánh thư ấy là kẻ mắc chứng uỷ hoàng, sống nhàn hạ
lại không phải lao động nên phủ tạng ốm o, hay mơ mộng, ưa những chuyện dâm
đãng và sầu bi. Bản thân cuốn thánh thư ấy chỉ là sự phản chiếu đầy đủ về “một
xã hội ốm, một đẳng cấp ốm, một cá tính ốm”. Vẻ đẹp hình thức của cuốn thánh
thư ấy - điều tưởng như dẫu sao cũng không thể phủ nhận được – theo Trương Tửu,
“nó chứa chan một chất tàn héo, tiêu ma”. Tôi dám chắc rằng, sống trong bầu khí
quyển văn hóa Việt Nam, dù ở bất cứ thời nào, phải là người “gan cùng mình” mới
có thể tung ra giữa công chúng những luận điểm “trái tai” như trên.
Và quả thật, Trương Tửu đã bị những cây bút cùng thời
như Hoài Thanh, Ngô Tất Tố, Đinh Gia Trinh, Lê Huy Vân v.v... phản đối dữ dội.
Nhưng tuyệt nhiên, Trương Tửu không phải người thích cố tình nói ngược với cách
nói của thiên hạ. Ông biết rành mạch với chính mình. Những luận điểm về Nguyễn
Du và Truyện Kiều – như đã nêu trên – là kết quả tất yếu của cái cách
mà ông áp dụng phương pháp phê bình văn học được chính ông gọi là “phê bình
khoa học” khi phê bình Truyện Kiều.
Nói ngắn gọn, “phê bình khoa học” của Trương Tửu đòi hỏi
thái độ khách quan trong khi phân tích, đánh giá các sự kiện, hiện tượng. Thứ nữa,
nó yêu cầu khả năng vận dụng lý thuyết và kết quả nghiên cứu của các bộ môn
khoa học liên nghành như xã hội học, tâm lý học, di truyền học v.v... vào phê
bình văn chương. Trên thực tế, quả đúng là Trương Tửu đã kết hợp nhiều lý thuyết
để mổ xẻ Truyện Kiều: thuyết đấu tranh giai cấp và văn học phản ánh xã hội
của Karl Marx, Engels, Plekhanov, Lapargue; thuyết tâm phân học của Sigmun
Freud, Ernest Dupre, Maurice de Fleury; thuyết chủng tộc - địa lý của Hippolite
Taine (đến đây tôi không kìm được cái sự muốn mở ngoặc đơn bởi một phát hiện
nho nhỏ: Trương Tửu trích dẫn các học giả nước ngoài với mật độ dày đặc, ông
trích dẫn nhiều hơn bất cứ nhà phê bình văn học Việt Nam cùng thời nào).
Chỉ có điều, ông áp dụng chúng theo cách riêng của
ông, nghĩa là khá máy móc và cực đoan, vì thế ông mới có những kết luận “gây sốc”
nói trên. Dù sao, sự máy móc và cực đoan của Trương Tửu cần phải được nhìn nhận
như những lúng túng không thể tránh khỏi khi lần đầu tiên vận hành một phương
pháp phê bình văn học mới, một phương pháp phê bình khác hẳn lối thẩm bình văn
chương nghiêng về chủ quan, trực giác đã có từ trước đó, mà Hoài Thanh là một đại
diện tiêu biểu. (Hoài Thanh quan niệm: “Cái đẹp của Đoạn trường tân thanh,
cái chất thơ bàng bạc trong cả quyển truyện cần phải được cảm thấy một cách hồn
nhiên. Cứ phân tách, cứ giảng giải, nó sẽ tan đi. Đến đây phải im hơi, phải nhẹ
bước mới mong nhận thấy cái đẹp khi dịu dàng thuỳ mị, khi tráng lệ huy hoàng...”).
Thậm chí có thể khẳng định, “phê bình khoa học” của
Trương Tửu là một bước tiến về tư duy của nền phê bình văn học Việt Nam ở thời
điểm đó. Với Trương Tửu, phê bình văn học không chỉ là một nghệ thuật, mà nó đã
trở thành một khoa học: văn chương không còn là một cái gì đó thần bí không thể
hiểu được, nhà phê bình hoàn toàn có thể và cần phải “làm việc” được với tác phẩm
văn chương – giống như nhà sinh vật học làm việc được với những mẫu cỏ cây của
mình (Nhận xét mang sắc thái châm biếm của Hoài Thanh, vô tình đã xác nhận điều
này: “Với ông Nguyễn Bách Khoa, cái gì cũng rõ ràng như hai lần hai là bốn”).
Và ông chính là một trong những nhân vật lĩnh ấn tiên phong trên con đường đưa
phê bình văn học Việt Nam trở thành một khoa học văn chương.
Không phải chờ tới khi phê bình Truyện Kiều thì
Trương Tửu mới bộc lộ cái bản lĩnh dám trung thực với quan điểm của mình, dám
chấp nhận va chạm với những quan điểm trái chiều, thậm chí dám chấp nhận bị mất
lòng. Năm 1935, trên báo Loa, ông viết một loạt bài phê bình văn chương
đương đại. Khi viết về cuốn Nửa chừng xuân của Khái Hưng, ông hạ bút:
“Đọc hết Nửa chừng xuân, tôi tin rằng ông Khái Hưng không thể là một nhà
tiểu thuyết tả thực, hiểu theo nghĩa xác đáng của nó. Ông có tài nhưng không có
khiếu. Bởi vậy nên khi tôi thấy ông vác bút vào cái rừng phong tục hay cái hang
lịch sử Việt Nam, tôi e ông chỉ ra không, hoặc giả đem theo được vài... cục đất”.
Tranh luận với Thạch Lam, ông nói không kiêng nể: “Từ nay tôi không bằng lòng
nói chuyện với ông Thạch Lam vì ông không phải là một nhà văn, không phải là một
nhà hài hước. Ông Thạch Lam chỉ là một anh chàng nói lỡm”.
Về sau này, khi viết Nguyễn Du và Truyện Kiều,
như lường trước được sự phản đối của những người chủ trương thẩm bình văn
chương bằng chủ quan, trực giác, ông “đánh phủ đầu” bằng một khẳng định ở phần
“Khái luận” của cuốn sách: “Nghiên cứu một văn phẩm mà không tìm đến cá tính
nhà văn và hình ảnh của xã hội đương thời với nhà văn phản chiếu trong văn phẩm
ấy, tức là không hiểu gì về nghệ thuật phê bình hết”. Năm 1948, trong bối cảnh
mà nền văn nghệ kháng chiến đang đẩy tiêu chí “đại chúng hóa văn nghệ” lên hàng
đầu, trên tạp chí “Sáng tạo” của Đoàn văn nghệ kháng chiến liên khu IV, ông vẫn
riết róng tách bạch: “Chúng ta đã có nhiều bài văn vần kháng chiến.
Chúng ta đã có nhiều bài ca kháng chiến. Chưa có những bài thơ kháng
chiến” (Thơ Việt sẽ đi tới đâu?). Năm 1957, trong xu thế mà gần như toàn bộ học
giới không thừa nhận các tác phẩm văn học viết bằng chữ Hán (của người Việt
Nam) là những tác phẩm văn học thuần tính dân tộc, thì ông khẳng định: “Văn học
Hán Việt của các thế kỷ quá khứ là một bộ phận của văn học sử dân tộc, một bộ
phận khăng khít của truyền thống văn học dân tộc” (Mấy vấn đề văn học sử Việt
Nam).
Thực tế đã chứng minh: ông đúng. Về điểm này, có lẽ
Trương Tửu xứng đáng là một tấm gương cho nhiều nhà phê bình văn học Việt Nam
hiện nay soi vào, nhất là những người ưa lối nói uyển ngữ, có tâm lý cầu an, ngại
công khai quan điểm cá nhân của mình.
Viết về Trương Tửu, các nhà nghiên cứu lớp con cháu có
lúc đã không giấu nổi ngạc nhiên thích thú vì sự “đi bước trước” của ông trong
phê bình văn học. Xin được dẫn ra ở đây. Trịnh Bá Đĩnh: “Đọc chẳng hạn những
dòng dưới đây thú thật chúng tôi rất ngạc nhiên về thời điểm ra đời của nó
trong lịch sử phê bình văn học của ta: Nhưng tiếng nói vừa là một âm thanh mà lại
vừa là một kí hiệu (signe), một tượng trưng (symbol) để các người trong xã hội
dùng đến khi muốn hiểu nhau. Nó chứa đựng một ý nghĩa mà xã hội đã định cho
nó... Một tác phẩm được một xã hội cho là đẹp, vì tác phẩm ấy biểu thị được cái
hình thức tình cảm và tư tưởng cần thiết cho sự tồn tại và luân lý đang
có... Không nghi ngờ gì rằng các mảnh vỡ của lý thuyết cấu trúc, ký hiệu học
và tiếp nhận nghệ thuật đã bay lạc đến lãnh thổ của chúng ta và để lại dấu vết
từ khi đó” (Nguyễn Bách Khoa – Khoa học văn chương).
Đỗ Lai Thúy khi đọc đến đoạn: “chất thơ là một hệ thống
tương quan chặt chẽ, bao nhiêu vật liệu làm cái chất thật ấy nhào nặn đều được
y thức, một năng lực sáng tạo đem tổ chức, phối trí, đem hỗn hóa lại thành một
cơ cấu (structure) vững vàng với mọi thị hiếu của các người thưởng ngoạn nó cho
kỹ”, thì cũng thốt lên: “Thú thật, đọc những trang chữ trên của Trương Tửu,
tôi chợt nhớ đến R. Jakobson, người coi đối tượng của phê bình không phải là
văn học mà là tính văn học, chất thơ, tính nghệ thuật, và phê bình văn học là
tìm hiểu xem làm thế nào mà một thông tin giao tiếp lại biến được thành một
thông tin thẩm mỹ” (Trương Tửu với phương pháp phê bình khách quan khoa học –
trong sách Chân trời có người bay).
Trương Tửu xuất thân trong một gia đình dân nghèo đông
con ở Hà Nội. Thời tuổi trẻ, ông đã hai lần hô hào bãi khóa, làm reo, hai lần bị
nhà trường thực dân đuổi học. Sớm phải vào đời kiếm sống bằng nghề dạy học tư,
viết văn, viết báo, ông hoàn thiện tri thức cho mình chủ yếu qua con đường tự học
(Bút danh Nguyễn Bách Khoa mà ông chọn cho mình có lẽ đã nói lên phần nào cái
tham vọng chiếm lĩnh những chân trời hiểu biết của ông). Với một lực đọc mạnh,
một bản lĩnh và cá tính mạnh, một sự nhạy cảm lý luận không dễ kiếm, ông đã đến
với nghiệp phê bình văn học và để lại dấu ấn đậm của mình.
Viết Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ, Kinh
Thi Việt Nam, Nguyễn Du và Truyện Kiều, Văn chương Truyện Kiều, Văn
nghệ bình dân Việt Nam v.v... ông đã khiến không chỉ một người cho đó là
những thành tựu nghiên cứu phê bình văn học theo quan điểm marxisme đầu tiên ở
Việt Nam (chỗ này phải nói thêm: ông cũng chính là người đã dịch Tuyên
ngôn Đảng cộng sản ra tiếng Việt từ rất sớm). Sau năm 1954, đi “chuyến xe
bão táp” của thời cuộc, ông bỏ nghiệp phê bình văn học – một lần và mãi mãi - để
lại cho học trò và đồng nghiệp bao tiếc nuối về một tài năng đang độ thăng hoa.
Trương Tửu là vậy, luôn rành mạch với chính mình, rành
mạch tới mức cực đoan. Điều đó làm nên một phần diện mạo tinh thần của ông, làm
nên cái mà người ta phải nói về ông. Nhớ lại, trong điếu văn đọc tại lễ truy điệu
giáo sư Trương Tửu, Hà Nội ngày 19 tháng 12 năm 1999, học trò của ông, Giáo sư
– Nhà giáo nhân dân Nguyễn Đình Chú khẳng định: “Thầy ơi, chuyện đời cái gì
đáng qua đi, sẽ qua đi. Cái gì đáng còn lại, sẽ còn lại. Những vinh quang của
thầy sẽ còn lại”. Người viết bài này cũng tin như vậy.