Thơ Nguyễn Bình Phương không phải là thơ nhân chứng, anh ít đề cập trực tiếp đến những vấn đề
xã hội, thời sự. Không đề cập không có nghĩa là không quan tâm.
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG, LỜI THÌ THẦM CỦA EM SÁNG LẠI
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Chưa bao giờ tương lai trở nên bất định với con người
như những ngày chúng ta đang sống. Truyền thống văn hóa biến mất, sự phát triển
hỗn loạn của văn minh kỹ thuật, môi trường thiên nhiên bị hủy diệt làm con người
lạc lối trong thế giới hiện nay. Điều ấy càng trở thành ý thức của mỗi người
thì sự bất lực kèm theo nó, tức là sự vắng bóng các hành động thích hợp, càng tạo
ra tâm trạng nghi ngờ, bất an. Trong bối cảnh ấy, nhà thơ đương đại đối mặt với
nhiều câu hỏi, tiếng nói của họ không ngớt vang lên. Nhưng thơ là một tiếng nói
đi ở ranh giới giữa cái biết và cái không biết, lý tưởng và mê lầm, cái cũ và
cái mới.
“Ta sinh ra cô đơn
Giờ cô đơn đã cũ
Ta trưởng thành bởi sợ hãi
Sợ hãi cũng cũ rồi”
Nguyễn Bình Phương tìm cách thoát khỏi truyền thống cũ
kỹ. Có hai truyền thống: văn chương tiền chiến, nặng về tính biểu cảm, và chủ
nghĩa hiện thực thời chiến tranh hai mươi năm, nặng về tính hữu ích. Một bài thơ
hay không phải chỉ là một ý kiến hoặc một phát hiện tư tưởng, nó phải mang lại
cho người đọc cảm giác tham dự vào thế giới, tương tác giữa cá nhân và đồng loại.
“Người đi nhẹ nói thầm với ta
Nước chỉ là ký ức của mây
Lửa chỉ là ảo ảnh cũ mèm của đám cháy
Mỗi người có một niềm tin cậy
Nở rụt rè giữa đêm khuya thanh vắng
Người đi nhẹ sáng bừng như nắng
Mềm mại như hương thơm
Nhưng anh không hy vọng tràn lan”
Tại sao không hy vọng tràn lan? Vì anh không tin sự phức
tạp của đời sống có thể dự báo, tương lai có thể giản lược. Sự mất cân bằng là
tính chất của thơ Nguyễn Bình Phương, giữa một bên là đắn đo, bồn chồn, một bên
là trở về với trinh bạch đầu tiên, nhưng trong thơ sự mất cân bằng tạo nên động
lực. Một số nhà thơ đương đại phá vỡ rào cản, dạt ra bên rìa, chống lại quan phương,
bi kịch hiện đại. Nguyễn Bình Phương thuộc thiểu số ấy, mới hơn nhiều người, nhưng
anh không công khai nổi loạn, ít tuyên bố. Anh nhìn thế giới bằng con mắt của
người vừa yêu mến vừa lạnh lùng, vừa phán xét vừa hờ hững, trước cái đẹp và cái
xấu, cao quý và dung tục. Bề ngoài, có vẻ như anh bằng lòng với hiện hữu. Thật
ra, người thường xuyên thách thức nó.
“Cuối cùng
cuộc chuyện trò cũng biến thành câu hỏi
Tại sao người nọ dẫn người kia lạc lối”
Không phải bài thơ nào cũng hay, nhưng khi xuất sắc
thì chúng thuộc về một thế giới khác, một kiểu viết khác, trường tâm linh khác.
Cánh cửa của thế giới ấy không mở rộng, nhưng không khóa. Thế giới ấy có thể thơ
mộng, hiền lành, nhưng dung chứa những kinh nghiệm chấn thương kỳ lạ, tuổi thơ
bị giằng xé, những ước vọng mơ hồ khó giải thích. Đọc, bạn biết chúng hiện hữu.
“Bỗng dưng chới với ở nơi cuối nguồn
đàn bướm bay xuôi
dòng sông chảy ngược
ngồng cải vàng mơ một đàn bướm khác
ta say dề dà bên lề cuộc tình
Bỗng dưng trần trụi ở giữa bình minh
một mình làm cả hoang vu một trời
nghe bài hát cũ gặp lời xin lỗi
buồn tênh vòm cây
Bỗng dưng ngờ ngợ những đường chỉ tay
bao nhiêu uẩn khúc nhìn mình chằm chằm
bao nhiêu đêm rằm đổ vào bóng tối thủa em chưa chồng
Bỗng dưng đánh mất tất cả mênh mông
một người tỉnh queo làm anh ngán ngẩm”
Ngôn ngữ tự thu kín mình lại, chìm xuống để có cái
nhìn rõ hơn. Thơ không lớn giọng, nhưng đó là một ngôn ngữ bị xô đẩy, lệch đi,
bị bẻ cong lại, như ánh sáng đi qua nước. Anh có cảm xúc bén nhạy đối với nơi
chốn, vị trí, thứ tự, trật tự. Dường như đôi khi đi đến tận cùng ở đường biên sự
thật, nhưng rồi anh lại lập lại thăng bằng, ở câu thơ tiếp.
“Đêm nay nước mắt giáng trần
Con đom đóm nhỏ xiu đêm nay lạc mẹ
Ngủ nhờ giấc ngủ trẻ con”
Thơ Nguyễn Bình Phương khác với thơ cùng thế hệ anh ở
chỗ nó không tạo ra hy vọng giả, ảo ảnh, an ủi tạm bợ. Mỗi khi đọc chúng, bạn
có cảm giác như tiếp một người từ xa về, không ăn nói lưu loát, ngồi lặng lẽ trước
mặt, nhưng sự hiện diện đủ làm nên toàn bộ câu chuyện. Câu chuyện ấy rời rạc,
thì thầm, bí mật, hướng tới một điều gì dịu dàng hơn nữa, bí mật hơn, tốt đẹp hơn
nữa.
“Khuya khoắt thế còn lội ngoài đồng vắng
Vệt lân tinh nhẹ bẫng”
Cái gì lội ngoài đồng vắng? Lân tinh hay bóng một người?
Xương cốt ai? Để nhìn thấy, bạn phải sống qua khổ đau, hy vọng, từng lội qua
cánh đồng mưa lũ, sống, chết cận kề. Nhìn thấy vệt lân tinh chính là giây phút
của thức tỉnh, toàn vẹn, của việc mang vác gánh nặng, đến đây bỗng nhẹ hẫng, bạn
chấm dứt sợ hãi. Một bài thơ trữ tình mang lại nỗi phân vân nhưng không giải
thích nó. Thơ không thay đổi được điều gì, Nguyễn Bình Phương không có ảo tưởng
ấy. Nhưng văn chương có thể làm cho sự vật trở nên dễ hiểu, làm cho nỗi đau khổ
trở nên chịu đựng được. Có những vẻ đẹp không cần cắt nghĩa.
“Thi thoảng ngày không mạch lạc
Giữa cầu thang đụng nhau
Đầu óc quay cuồng như bước chân tử tội
Trên vạt cỏ phác tường sớm tinh khôi”
Thơ anh được viết dè dặt, giữa nhu cầu muốn được bày tỏ
và nhu cầu giữ lại. Cũng có trường hợp tác giả hoàn toàn buông thả, để mặc cho
cảm hứng dẫn đường, làm mới lại hoàn toàn một tâm trạng. Sự gặp gỡ ở giao tuyến
của sự thật này và sự thật khác tạo nên tính huyền ảo. Anh là sự thách thức thẩm
mỹ và bút pháp đối với các nhà thơ đi trước anh một thế hệ.
“Nở như người ác ngồi tư lự
Nở như nỗi buồn đi mang làn môi xanh
Nở như ngọn đèn trôi êm ru từ bãi tha ma về
Sau tình yêu con đường lạnh”
Bài thơ có khi tựa tiếng thở dài già cỗi, lúc như đứa
trẻ phấn chấn, hồn nhiên. Nếu mục đích của thơ ca là làm cho tâm hồn trở nên
sâu sắc, thì các nhà thơ phải đối diện với bất bình, tìm thấy ở đó ngôn ngữ của
một hiện thực khác, chưa bao giờ thấy.
“Dưới mùa mưa dầm dề họ ngồi chơi cờ tướng, con tốt sắn
quần lội vào chỗ chết, lại chết một lần nữa, và cứ thế, không lăn tăn nghĩ ngợi,
họ cười.
Trong giấc ngủ của họ con rồng trắng cựa mình ngần ngật,
rồi sớm ra, hiển nhiên, những dòng mương trời ban nước về trong leo lẻo.
Tôi đã tới thượng nguồn sông Hồng, ngầu, mênh mông, dữ
tợn là thế mà sinh ra một châu thổ lững lờ. Họ ở châu thổ ấy, rải rác, lo căng
trong yên ả, khi hiểm nguy thì xúm lại thành rừng. Đừng ca tụng họ, đừng rắc bạc
lên phù sa vì phù sa đã bạc, hãy trồng thêm những bãi bờ lơ đễnh, nếu bình yên
là điều anh mong đợi”.
(trích Những cư dân đồng bằng sông Hồng)
Bài thơ của anh có những khoảnh khắc tựa điểm sáng,
hay cửa sổ. Suy tưởng trong thơ là chủ đạo, nhưng đó không phải là suy tưởng
khô khan, mà xảy ra như một quá trình giữa sự vật và cảm xúc, giữa thế giới cụ
thể và trừu tượng.
“Khuất trong góc nhà tôi có cả ta cả giặc
Bánh xe màu lục, viên đạn vô hình”
Đó là tác giả nói về đồ chơi trẻ con, nhưng không phải
viết cho trẻ con, mà cho người lớn. Kinh nghiệm của nó, những câu thơ ấy, vừa
là kinh nghiệm riêng của tác giả, như chữ màu lục, không thể truyền đạt bằng
cách khác, vừa là gợi ý gián tiếp, lời nhắc nhở có ý thức. Đó là kỷ niệm về mất
mát, nhưng mất mát cũng có nghĩa là từ chối sự chiến thắng. Trong sự từ chối
chiến thắng, kẻ đã thất bại sẽ trở lại, người đã chết sẽ trở về, nhân chứng mở
lời. Ở những cửa sổ ấy, thi sĩ dừng lại, nhắc lời nói của mình nhưng với giọng điệu
khác, giọng tác giả, không phải nhân vật.
“Một lời tỏ tình vừa cất
Xác những ve sầu buông rơi”
Cảm hứng của anh về đất nước, về chiến tranh, về các
bi kịch xã hội được thể hiện một cách khác hẳn so với những tác giả trước anh một
hoặc hai thế hệ, ngay cả trong cùng truyền thống chính thống. Càng ý thức sâu sắc,
người viết đương thời càng có cái nhìn toàn diện; càng có cái nhìn toàn diện, họ
càng bình tĩnh hơn. Ý thức về các bảng giá trị khác nhau, các nền văn minh
khác, mặt trái của lịch sử, làm cho văn chương của người viết hôm nay, trong đó
có Nguyễn Bình Phương, khiêm tốn và bao dung hơn, và do đó, minh triết hơn. So
với thế hệ trước.
“Không phân biệt
Ngủ bên ngoài mái hiên hay ngủ trong lòng mẹ
Đâu cũng là giấc mơ”
Thơ đến từ cảm xúc sôi nổi của thời đại nhưng khi viết
xuống nhà thơ cần sự cô độc. Nguyễn Bình Phương là trường hợp ngoại lệ của dòng
văn học chủ lưu, một tiếng nói có thể đơn lẻ đến thế, độc lập đến thế. Mặc dù
không sở hữu từ vựng hoàn toàn mới, và đây là nhược điểm, không phải ưu điểm,
không đảo lộn câu chữ, gây rối văn phạm, viết câu dài ngắn khác thường, Nguyễn
Bình Phương là một phép công phá im lặng lớn chưa từng được gọi tên trong thơ.
Con đường anh đi đến với độc giả của mình, vì mỗi nhà thơ thực sự chỉ có độc giả
của mình, và không nên có những độc giả khác, con đường ấy sẽ dài, một phần vì
vậy. Anh cũng có khuynh hướng của chủ nghĩa tối thiểu, đôi khi phảng phất Haiku
Nhật, nhưng vẫn đầy tính trữ tình chủ quan của thơ hôm nay.
“Rồi hoàng hôn lá mục
Vắng run người”
Niềm thương nhớ bồi hồi, không da diết quá, không gào
thét, đôi khi như nụ cười, nhưng bảng lảng đâu đó trong trời đất, như tâm tư của
người duy nhất còn sót lại. Người sống sót là người chu đáo nhất.
“Bạn bè đi làm kiếp vợ chồng
Đom đóm yêu nhau lập lòe chốn cũ”
Sự khó hiểu của thơ anh là ở tính hờ hững, nhẹ hẫng của
chữ. Chúng như cảm quan của cây cối, không gọi, không khóc, không rù quến. Có
thể cho rằng đó là một thứ thơ mà cánh cổng đi vào bài thơ không mở rộng, mời
chào, như người chủ nhà đãng trí, nhưng chỉ cần bạn bước qua cổng, sẽ có một
khu vườn hương sắc chờ bạn. Bên cạnh những cách tân quan trọng, anh cũng có lúc
dễ dãi với mình, sa vào lặp lại, vào hướng đi có thể đoán được. Ví dụ, một bài
thơ trung bình:
“Vân của vùng Duy Xuyên”
Câu mở đầu hay. Tôi nghĩ đó là năm chữ khó cho bất kỳ
tác giả nào; quả nhiên, anh tiếp:
“Dẫn vào đêm thánh địa một nỗi niềm trắc ẩn”
Vì vậy, kết thúc bài, sẽ là những:
“Vân bỏ lại nụ cười bảng lảng
Rồi nghiêng nghiêng lẫn với mưa rừng”
Thế là chưa xứng với câu mở đầu. Hình ảnh, màu sắc được
Nguyễn Bình Phương diễn tả giản dị, linh động, vài nét phác họa mà gây cảm giác
lưu luyến, mang ý nghĩa riêng.
“Những con chim ngủ yên trong mặt trăng bằng nước
Mưa phùn bay giấc mơ màu ngọc”
Ngôn ngữ siêu thực. Thiếu vắng mối liên thông giữa hai
sự thực: của cuộc đời và của tưởng tượng. Thơ anh không dễ hiểu nhưng lại không
tối tăm: có một ngưỡng cửa nào đó người đọc cần bước qua. Giới hạn ấy là về
ngôn ngữ và văn hóa, tiểu sử và lịch sử, cái đúng và cái đẹp. Nguyễn Bình Phương
cũng làm thơ lục bát, một trong những thể loại khó nhất của thơ Việt, và tạo ra
được tiếng nói riêng biệt.
“Người đi ba bước gặp trăng
Bảy bước gặp gió năm năm gặp trời”
Hay:
“Ngày thôi gậy trúc cầm tay
Hồn lam chướng đã phất ngay về trời”
Chưa đặc sắc, nhưng so với lục bát cùng thời có cái
khác lạ, nhờ phối hợp hình ảnh và ý tưởng, một kết hợp thường được các nhà nghiên
cứu gọi một cách mơ hồ là tứ thơ. Nói về lục bát để thấy anh sử dụng nhiều thể
loại, không cực đoan. Hình như anh không có nhiều thơ dài hay trường ca như các
nhà thơ quân đội khác? Nhưng trong anh có khuynh hướng hiện đại sau chủ nghĩa
hiện đại, và không xa với hậu hiện đại. Vẻ bàng quan như trước đây trong văn của
Nguyễn Xuân Hoàng. Nhưng có nhiều hơn một Nguyễn Bình Phương. Không thể dễ dàng
nghĩ đến anh chỉ như nhà thơ hay nhà tiểu thuyết, một người lính hay kẻ lang
thang mơ mộng, một người tham dự sâu vào đời sống đương đại hay kẻ thật ra thâm
tâm hờ hững. Tôi nghĩ, cái nhìn của thi sĩ làm cho văn xuôi của anh trở nên thơ
mộng hơn, trong khi cảm nhận của nhà tiểu thuyết làm cho thơ anh trở nên khách
quan, điềm đạm hơn. Anh chăm chú nhắc đến kỷ niệm:
“Những ánh sáng lặng im soi một phần quên lãng
Như lặng im chiếc cần câu chờ bí mật diệu kỳ vung lên
từ nước
Như hình hài một con đường và anh, con đường đi ngược
Vang xa cùng dải Ngân hà”
Không chỉ là hoài niệm, đó còn là sự đánh giá, chiêm nghiệm
về những giá trị khác nhau. Anh là người xếp đặt các bảng giá trị, cho riêng
mình, tất nhiên. Ngôn ngữ mang lại niềm hy vọng về những trật tự. Bài thơ thật
sự, cũng như tình yêu thật sự, mang chúng ta tới sự thật, trực tiếp, xúc động.
Quyền năng ẩn dụ của ngôn ngữ thơ làm thay đổi bạn trong phút chốc, nếu bạn là độc
giả đích thực của thơ. Cần nhớ rằng số người đọc ấy không nhiều, đó là nhận xét
đôi khi cay đắng, nhưng hoàn toàn đúng, cần thiết. Nghĩ rằng tất cả mọi người đều
là độc giả của thơ, theo tôi là sai lầm lớn nhất của sự đọc, của phê bình. Thơ
cần người đọc tinh hoa, không cần đám đông. Những người nào tìm thấy một nhà thơ
đương đại như Nguyễn Bình Phương, đọc anh, vừa thấy mình là một với tác giả vừa
thấy mình là người quan sát. Đó là một ngôn ngữ trữ tình nhưng xa cách, thiếu sự
nồng nàn nồng nhiệt, gần như chống lại thương cảm, làm cho người đọc vừa sống cảm
xúc của nhân vật vừa được nhìn ngắm thế giới của họ.
“Sau tiếng chuông
Quả chuông âm thầm tê dại”
Thơ Nguyễn Bình Phương thuộc dòng trữ tình- nhận thức.
Thơ ấy đi qua nơi giao hòa của cái riêng tư và tập thể, cá nhân và lịch sử. Dường
như anh chỉ có những nỗi đau âm ỉ, không ồn ào, làm bạn giật mình thức dậy
trong đêm, lắng nghe, bồn chồn.
“Vậy nhé
Hãy dừng lại tại đấy mà nghe
Nó đang ở cuối đường
Thân thể gầy còm vì chay tịnh”
Bạn không hiểu lắm tác giả muốn nói gì, nguyên cớ của
chữ chay tịnh, nhưng những câu thơ ấy làm bạn dừng lại. Bạn tin có một người
nào đang nói, người ấy đi tìm ngôn ngữ cho riêng mình, để nói điều gì không nói
được bằng ngôn ngữ nào khác. Nếu bạn đứng im, không la lối om sòm vì không hiểu,
như trước một con thú lạ, hay một sinh vật ngoài hành tinh nếu bạn muốn thế, đưa
mắt nhìn từ tốn, không kích động hay sợ hãi, bạn sẽ nghe tiếng nói ấy tiếp tục.
“Vậy nhé
Hãy nheo mắt gập đầu chấp nhận
Bạn nheo mắt.
Sống đôi khi là ngưng thở
Ngồi im đôi khi cũng sang được mùa hè”
Nếu cố gắng tìm hiểu, chưa chắc bạn đã hiểu. Tôi nghĩ
là bạn nên từ bỏ ý định ấy, không phải vì hiểu là không cần thiết. Ngược lại.
Nhưng đó không phải là điều quan tâm trước hết, ở đây.
“Những ông vua cỏ chết rồi
Điếu văn đọc mãi toàn lời vu vơ”
Cũng như khi bạn nhìn bông hoa nở đẹp, một người nhảy
múa, nghe chim hót, bạn chỉ nhìn, nghe, thích thú, chứ không quan tâm lắm về ý
nghĩa của những thứ ấy.
“Rồi con mèo trung tính sẽ biến đi
Bí mật hiện ra giữa mờ sương của bạn
Nó tặng ta một bông cúc sắp tàn
Có cuộc đời chẳng chịu tàn trong đó”
Nếu bạn là người đọc của anh, bạn sẽ quay lại. Nếu
không phải, bạn sẽ đi luôn. Tôi tin nguyên tắc đầu tiên của chúng ta là thừa nhận
rằng thơ không dành cho tất cả mọi người. Thực ra hội họa hay âm nhạc, toán học
hay sinh học, cũng chưa bao giờ dành cho tất cả mọi người. Nguyễn Bình Phương nói
lời sau cùng với nụ cười điềm đạm:
“Vậy nhé
Tạm biệt, đừng đánh thức
Đừng nghe
Nhưng có thể nhìn thêm lần nữa”
Trên đây tôi muốn trình bày kinh nghiệm trong việc đọc
một bài thơ cụ thể của anh, bài “Khoảng giữa”, trong tuyển tập “Xa xăm gõ cửa”.
Thơ Nguyễn Bình Phương không phải là thơ nhân chứng;
anh ít đề cập trực tiếp đến những vấn đề xã hội, thời sự. Không đề cập không có
nghĩa là không quan tâm. Sự chọn lựa ấy phát sinh từ bản thân ngôn ngữ của
một tác giả, hoặc là ngôn ngữ tiếp nhận đối với thời thế, hoặc là ngôn ngữ loại
trừ chúng, hay gạn lọc chúng. Tôi nghĩ, Nguyễn Bình Phương ở trường hợp thứ ba.
Thơ anh góp phần làm giàu cho tiếng Việt đương đại, lặng lẽ mở cánh cửa ít người
thấy, không lớn nhưng nhìn ra chân trời bát ngát, ít tiếng động nhưng nhiều biến
cố, ở đó lịch sử không những đã đi qua, mà vẫn còn đang đi qua, mệt mỏi, thương
xót, trên nền của một văn minh phai tàn.
“Vào
các tối thứ bảy
Tấm vẫn đi dọc bầu trời cùng những ngọn gió
Bước chân ngời ngợi ánh trăng
Trong cỏ úa mênh mông
Cám đã mộng
Trong nỗi đoạn trường của sắc đỏ
Chúng ta đã mộng”
Con người không thể nhìn mãi vào đống gạch đá đổ nát,
dù là ở Thăng Long hay tận Tháp Chàm, họ đi tìm hoài niệm mới. Thơ Nguyễn Bình
Phương là hoài niệm mới. Anh nghĩ ngợi về một điều gì, đâu đó, thuở nào, chưa
bao giờ chỉ ra; người đọc chỉ biết đã hiện hữu một thứ gì như hạnh phúc, sự thật,
vàng son tình yêu. Thơ anh buồn nhưng không bi quan chán nản. Nỗi buồn làm con
người lớn lên, bi quan làm họ gục ngã. "Xa xăm gõ cửa", khác với cái
nhan đề tuyển tập thơ, là một tiếng thì thầm thân mật, lời nói khẽ của bạn bè đêm
tối. Chúng tồn tại như ý thức của anh.
“Dưới
chân cầu có giấc ngủ nắng
Đom đóm xoay quanh những khóm lau vàng
Nhớ em anh buồn anh chóng mặt
Nước không người nước đi lan man”
Tình yêu là đề tài kín đáo, gần như giấu mặt trong thơ
Nguyễn Bình Phương. Tình yêu bí ẩn ấy không có nhiều nhục thể, không có thương
nhớ bồng bột, nhưng dai dẳng, quyết liệt, âu lo. Xa xăm gõ cửa là một tuyển tập
từ nhiều tập khác nhau, nhưng cũng có thể là một tác phẩm độc lập, bởi vì sự tập
hợp mới có thể tạo ra cấu trúc mới. Trong ý nghĩa ấy, đó gần như là một thể
nghiệm của Nguyễn Bình Phương, đi tới biên giới của chữ và nghĩa, giúp người đọc
tưởng tượng về điều họ đã biết nhưng chưa tưởng tượng, cảm xúc cái mà họ nhận
thức nhưng chưa cảm xúc. Trước anh, ít ai viết thế này về đêm:
“Đêm
vằn vện của hổ
Đêm ngật ngờ giấc mộng loài chim
Đêm đo đỏ khuôn mặt hút thuốc
Đêm nhung êm làn nước xanh đen
Chảy vào ngày trắng xóa”
Thơ Nguyễn Bình Phương có nhịp điệu dịu dàng, êm ái,
nhưng hàm chứa bước ngoặt bất ngờ, ý lạ. Vì vậy đôi khi nó có vẻ trúc trắc. Một
thứ thơ chậm. Một thứ thơ trữ tình giàu suy tưởng.
“Một
bầu trời phẳng lì
Không mây không gì cả
Tường chói tiếng nói chói
Chói tấm biển chỉ đường ra ga
Gương chiếu hậu quắc lên quái gở”
Lối nói nhiều hình ảnh, tiết kiệm chữ, ít bày tỏ, cũng
làm cho thơ anh có tính trực tiếp. Dù vậy, khuynh hướng tượng trưng vẫn cao, tức
là tính quy ước của một số lối nói và hình ảnh sâu đậm.
“Ngày
tháng xanh xao vì thương tổn
Đã bạc màu cả những ước mơ
Anh từng nghĩ mình là gì nhỉ
Người đàn ông da vàng
Trên con tàu này chuyến đi dài dằng dặc”
Thơ giúp chúng ta làm vài điều gần như không tưởng, tạo
ra những liên kết không thực, những khả năng bất tận. Thơ thử mở cánh cửa của
thời gian dù biết rằng không mở được, thử làm thay đổi lịch sử mặc dù lịch sử đã
xong. Bạn còn đòi gì nữa? Đó là cơ chế tự vệ sau cùng của nhân loại.
“Ở
trong khu rừng ma
Có những con hươu ma”
Hình ảnh của anh là bóng tối, rừng, người lính, thuốc
lá, lảo đảo, mưa, sự mờ nhòa, rã mục. Nhưng bên dưới là một điều gì khác, sâu đậm
hơn nhiều. Phép nhân cách hóa ở anh không chỉ là một phương pháp tu từ thuần
túy. Có một cái gì hơn thế, trong câu:
“Đừng
ném khăn xuống nước
Nước buồn”
Khi anh đi xa hơn, câu thơ không còn được nâng đỡ bởi
ý tưởng mới. Đó là khuyết điểm chung của nhiều nhà thơ, không chống được cám dỗ
của quán tính (momentum) của bài thơ:
“Đừng
gieo mình xuống nước
Nước buồn”
Những lầm lỗi lịch sử mơ hồ: ý thức xã hội không bày tỏ
rõ ràng. Đôi khi có những giây phút tỉnh thức, chúng phát ra một thứ ánh sáng tự
nhiên đủ làm chao đảo tâm trí.
“Tôi
cắt tóc
Một người cực lạ
Rũ khăn choàng váng vất bước ra”
Nguyễn Bình Phương là người lính, có lẽ do nhiều cơ
duyên, nhưng anh cũng có thể làm công việc khác, khi anh nhìn những vỏ đạn cũ.
“Người
lính chống cằm nhìn những vỏ đạn”
Thơ nói về bất toàn. Của thiên nhiên, con người, thế
giới. Cái đẹp gợi lên bất toàn. Một cặp tình nhân hạnh phúc: sẽ được bao lâu? Một
cuộc cách mạng lừng lẫy: khi nào tàn? Còn tuổi trẻ?
“Đêm
nay nước mắt giáng trần
Con đom đóm nhỏ xíu đêm nay lạc mẹ
Ngủ nhờ giấc ngủ trẻ con”
Có những nhà thơ bị ám ảnh về tạm thời, tan vỡ, như
Xuân Diệu, chúng ta biết. Nhưng thơ đương đại vượt qua đau xót ấy, sự than khóc
ấy, vì ngay từ đầu người trẻ hôm nay chưa bao giờ hạnh phúc đến mức "hỡi
xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi"(XD). Cảm giác bất toàn trong thơ Nguyễn
Bình Phương được nuôi giữ trong sức lặng lẽ chịu đựng.
“Qua
đường hầm nhỏ
Anh đang trở về”
Đó là một đường hầm có thật ngoài đời, nhưng cũng là
biểu tượng. Nguyễn Bình Phương có thói quen dùng nghĩa khác nhau của chữ. Đó là
cách anh nhìn sự vật từ góc độ khác, xoay chuyển chúng trong hệ tọa độ ý nghĩa.
“Tin
vào đêm
Không tin bóng tối”
Anh có những câu bất ngờ mở đầu bài thơ. Đôi khi chúng
như ngọn dao chẻ đôi sự thật, đôi khi như con đường đi xuyên qua cỏ rậm, rừng bạt
ngàn. Tuy vậy lúc nào cũng có một hy vọng, ẩn kín đáo dưới mỗi bài thơ, khúc
quanh trong bài thơ ấy.
“Không
phân biệt
Ngủ bên ngoài mái hiên hay ngủ trong lòng mẹ”
Một ngôn ngữ trực tiếp, giản dị, nhiều hình ảnh không
mới lắm, lẫn vào những câu cũ, nhưng tác giả đã thực sự bước qua khung cảnh tâm
trí mới, hệ thống thẩm mỹ mới, chia tay không thương tiếc với điều người khác đã
nói quá nhiều.
“Em
nói gì với thân xác của em
Thân xác bỗng hồng hào náo nức
Thân xác em nói gì với trời đêm
Ngàn sao trên đầu ta rạo rực
Ơi đám mây đám mây nồng ấm
Mắt người tình còn rờ rỡ nữa không”
Nhà thơ Việt Nam ít nói về thân xác. Thân xác khác với
tình dục, tình dục khác với gợi tình. Không ngại bất cứ một đề tài nào, chạm đến
những niềm tin cốt lõi, những thói quen buồn chán và đáng ngờ vực, thăm dò khả
năng mới của ngôn ngữ, không ngừng mơ mộng.
“Nai
kêu
Rừng ẩm ướt
Sương mù lên che ngang mặt cây
Đá rì rầm rì rầm bên suối
Điếu thuốc lập loè con mắt thú rừng ơi
Sao tán cọ tơ non rười rượi thế
Sao nửa muốn choàng ôm
Nửa thu mình lặng lẽ
Tình yêu nào không dự cảm đớn đau”
(Ở Định Hóa)
Thơ Nguyễn Bình Phương như truyện của Raymond Carver.
Anh là người quan sát, nhiều hơn là tham dự. Chất trầm tư bàng bạc giữa các
câu. Vẫn biết không thể tỉnh thức trong mọi lúc, nhưng thơ anh là cái nhìn thấu
đáo, hư vô mà vẫn gần với dân gian. Đó vừa là điểm mạnh vừa là điểm yếu: tư duy
thơ vừa bác học vừa bình dân, làm được cả hai thứ không phải dễ. Nhưng đó chưa
phải là điểm xuất sắc nhất trong ngôn ngữ Nguyễn Bình Phương, tôi nghĩ ở anh có
một điều gì khác nữa, mơ màng, thi vị, làm nên tính thơ của mọi ngôn ngữ, vẻ đẹp
của tình yêu. Có một khả năng tái lập các khái niệm, tái tổ hợp các niềm tin,
làm mới một cách sống. Cái chết cũng là huyền thoại.
“Cuối
cùng
trời cũng ở sau lưng
Cuối cùng
con suối thủa bé cũng chảy kịp tuổi già và trả ta ánh
trăng”
Anh không nhắc tới thiên đường địa ngục, sự tồn tại của
đấng cứu chuộc. Điều ấy chỉ làm cho ám ảnh siêu hình trong thơ anh trần trụi hơn,
khốc liệt hơn. Giây phút chiếu sáng là ngắn ngủi.
“Ngày
nào tha em đi lấy rau cần
Gặp mái tóc rũ buồn mệt mỏi
Con diều vàng bén lửa giữa hoàng hôn”
Trên tâm trạng phảng phất buồn rầu như gam màu xám,
anh có những phút bừng sáng, tươi trẻ. Như tình yêu. Như thân xác.
“Anh
đã tới chỗ ấy
Đã gặp cái vầng trăng mươn mướt của anh”
Có một niềm hối hận hay lời thú tội nào trong thơ Nguyễn
Bình Phương? Ẩn dụ là công việc khó khăn của các nhà thơ. Bởi vì đời sống không
phải là một sự vật mà là một quá trình, nên ẩn dụ phải là một quá trình.
“Trong
ký ức người điên
Đêm đêm lửa chập chờn tìm kiếm
Những bức tường màu lam”
Tại sao màu lam, tôi không biết. Đọc thơ tạo ra kinh
nghiệm mà không một quá trình nào khác có thể mang lại, chúng ta nhìn thấy gần
khuôn mặt tác giả, nụ cười, ly biệt. Tôi tin vào chuyện kể của nhà thơ, nếu đó
là nhà thơ có tài. Tôi tin rằng những câu thơ có thật như chính cuộc đời anh.
“Anh
đã tới chỗ ấy
Đã gặp cái vầng trăng mươn mướt của anh
Nó ngồi đó, một mình, không cô đơn nhưng tràn trề tĩnh
lặng
Nó tự sáng hay em làm nó sáng
Bụi tóc tiên dại điên miên man
Vang lên những tiếng nói rối bời
Dù thế nào thì cũng đã tới
Anh tới đầy trống trải
Đúng như một con người
Chạy bạt tử trên gò hoang thoai thoải
Và reo vang
Đúng như một con người
Anh thành đốm nắng không nguồn cội
Thành đôi môi đẫm rượu
Lênh đênh qua hàng quán tàn phai
Với cái nhìn bạc màu kiêm ái
Anh nhận ra tro tàn kim cương
Trong chớp mắt chậm như vĩnh cửu
Còn nhớ chăng bầu trời quạnh hiu
Trong thân thể gầy gò nơi giam giữ phận anh thoáng chốc
Em hay vầng trăng khiến nó mịt mù
Kìa nước mắt đứng khoanh tay ủ rũ
Mang vị mặn khó hiểu
Ai sẽ là người giữ tiếng khóc của em
Trống trải
Chiếc áo sơ-mi khoác hờ lên bóng đêm
Là anh đấy. Những buổi chiều lá bay quanh mình
Một người đi chơi vơi như lửa
Ta rụt rè thắp ngọn đèn xưa
Lời thì thầm của em sáng lại”
Bạn có thể đi tìm ý nghĩa trong thơ, nhưng đối với
Nguyễn Bình Phương đó không phải là điều hoàn toàn có ích khi bắt đầu đọc anh,
vì sự tìm kiếm ý nghĩa này thường xuyên bị ngăn cản bởi sự gián đoạn. Tất cả những
điều này đến lượt chúng không phải là kỹ thuật trang trí, mà nằm trong nội hàm
của nghĩa. Cách hay nhất để đọc bài thơ là đi dọc theo chiều dài của nó như hai
người bộ hành dắt nhau đi. Thơ của người viết đương đại ngày càng trở nên khó
hiểu, không phải vì họ sử dụng một ngôn ngữ khó hiểu mà vì người đọc không quen
tiếp cận bài thơ mới. Mới và khó hiểu là hai thứ khác nhau. Đôi khi lỗi không
phải ở người đọc mà ở nhà sư phạm và nhà phê bình. Lỗi ấy bắt đầu ở chỗ người đọc
được khuyên phân tích một bài thơ là đi tìm ý nghĩa trong ấy. Hầu hết người đọc
khi lớn lên sẽ không còn đọc thơ nữa vì họ bị lạc đường trong khu rừng chữ, đầy
rẫy bài thơ dở và những nhà thơ mới nhưng bất tài. Tương tác cảm xúc của bạn với
bài thơ là ngay lập tức, nguyên phát, bạn không thể gác điều ấy để chờ những
quá trình phân tích nào khác.
“Anh
theo sông tìm đến những mùa trăng
Trong mùa trăng rất nhiều vầng trăng lạ
Bầy chim muỗi chờn vờn bay giữa lá
Nhớ em anh tức ngực đau đầu”
Một bài thơ hay làm bạn vui thú. Archibald MacLeish: một
bài thơ không phải là nghĩa. Nhưng là chính nó. (A poem should not mean. But
be). Khuynh hướng ngôn ngữ trong thơ xuất hiện ở Việt Nam khá sớm, có lẽ cùng với
Bùi Giáng trong Nam hay Trần Dần ngoài Bắc sau đó, nhưng khuynh hướng ấy không
có các nhà lý luận; tác giả ít có những tuyên bố rõ ràng. Đó là một khuynh hướng
mới, thổi luồng gió lạ vào sinh hoạt văn học, chưa thực sự được đánh giá đúng.
Bài thơ là một sự vật. Bạn đến với nó như đến với một sự vật. Tôi nghĩ, trong
thơ và trong tiểu thuyết, Nguyễn Bình Phương là người có khuynh hướng ngôn ngữ
như thế. Chữ của anh trước hết là chữ, mặc dù không phải không có nghĩa. Từ góc
nhìn ấy, vì vậy, thơ anh có vẻ huyền ảo ít gặp trong thơ cùng thời.
“Tháng
Tám day dứt
Bản nhạc cũ bắt đầu kết độc
Da thịt chán nản như lá khô
Lần thứ nhất chính mình là nỗi sợ
Lần thứ hai buồn hơn lần thứ nhất
Bấy giờ vào tháng Năm
Đường mòn cỏ vàng
Lũ trẻ lạc trường vẩn vơ thành bướm dại
ý nghĩ tàn những giấc mộng trưa
Không kịp nhìn lên vầng trán của mình
Lần thứ ba bỏ trống giữa bình minh
Mở mắt gặp âu lo lần thứ bảy
Bên chiếc gối mịt mờ
Cuộc sống dề dà không chịu bay”
Tác giả khai thác mối quan hệ giữa thơ và giấc mơ chìm
sâu trong vô thức, huyền bí, sự sống ở cõi khác, hình ảnh phản chiếu của chúng
trong đời. Nhiều bài thơ là sự kiểm soát, sự dừng lại vừa phải, và lao động cật
lực của việc viết đi viết lại, mà bất kỳ nhà thơ thực sự nào cũng trải qua.
“Tôi
nhớ những mùa nở rộ
Dọc bên kia bờ thời gian
Ngàn cánh vàng hoa điên điển
Nhớ người cựu binh bị ký ức mài mòn
Ngồi lẫn vào trong nước
Ngó đăm đăm một cánh cửa vô hình”
Đôi khi những biến đổi trong một bài thơ khó nhận thấy,
người đọc phải trở lại nhiều lần, yêu bài thơ đến mức không thể bỏ qua một cách
khinh xuất, biết khiêm tốn như tác giả trước bài thơ, lắng nghe cho được sự
khác nhau giữa một bên là tiếng nói xôn xao của thời đại, buồn phiền, giận dữ,
và một bên là tiếng nói điềm tĩnh, gần với dân gian, như nước chảy trong đất, của
tác giả. Tôi gặp những câu thơ như tia chớp, làm cho chúng ta ý thức được về bản
thân và sự vật.
“Tôi
nhón gót về
Người chở đò góa chồng rên trong mê ngủ
Ngọn đèn thu lay lắt”
Hình ảnh buồn nhưng không bi lụy. Thơ như thơ Nguyễn
Bình Phương cần sự đọc sâu sắc. Khả năng đọc sâu sắc, tôi hiểu là thế này: hóa
thân vào câu thơ, trở thành nhân vật trong bài thơ, trở thành tác giả. Trở
thành người chở đò hay con đom đóm đi lạc mẹ. Mọi chuyện đều có thể xảy ra, nhưng
bạn phải nhảy vọt qua khoảng cách giữa sự thật trần trụi và sự thật tưởng tượng.
Cảm giác giác quan, thị giác, rất mạnh trong thơ anh, một thứ thơ vốn không sử
dụng nhiều tính từ mô tả.
Sáng tạo của nhà thơ thường được hiểu là quá trình tự
bày tỏ, tự thể hiện, về tư tưởng và tình cảm, nhưng thực ra phần lớn sáng tạo ấy
nằm trong quá trình thăm dò, thám hiểm, đến với cái chưa biết, thậm chí chưa
có, thể hiện những kinh nghiệm mới mẻ dưới sự chiếu rọi của ngôn ngữ. Nguyễn
Bình Phương thường trở lại với thiên nhiên, chất liệu nghệ thuật của anh ít mở
rộng như các nhà thơ khác mà thường tập trung. Thơ anh trở thành phép diễn dịch
bất tận đối với thời gian. Hoài niệm mới, tức là sự nhắc nhở một quá khứ giả tưởng,
hướng về tương lai, không phải than khóc cái đã mất, mà các ý định ngầm để mô tả
một xã hội lý tưởng, trở thành ý thức trong thơ anh. Nỗi buồn và cái đẹp khó
tách rời nhau. Mặc dù ngôn ngữ trung thành với văn phạm, cú pháp, các hình ảnh
là sự sắp xếp rời rạc các biến cố, các kết nối giữa chúng là đứt đoạn. Anh là mặt
đất, mùa màng, cũng là con người lạc lối, kẻ mơ mộng cuối cùng giữa các bậc
thang giá trị đang hỗn loạn.
“Cuối
cùng
mắt không phải để nhìn mà chiếu sáng
Khi ta gặp nhau thì trời hoá bạc
Trời xuống làm con thác
Đổ từ tóc em tới vai anh
Cuối cùng
mùa hạ cũng giữ được cho riêng mình một buổi chiều
lành lạnh
Cuối cùng
chiếc gương cũng trào ra những bóng hình ứ đọng
Cuối cùng ai đó kêu to dưới cơn giông
Cửa đã mở
cửa đã mở
mở
mở”
Cái đẹp của Nguyễn Bình Phương là cái đẹp tự kiềm chế.
Anh không chỉ nói về đối tượng, đề tài, mà chính ra cũng nói về bản thân sáng tạo.
Anh đi tìm an ủi, khích lệ, từ chối sự buông thả, sự lãng quên tập thể, là người
giữ lại, và giữ lại được, cái đẹp cho chúng ta. Sức hấp dẫn của thơ anh nằm ở
chỗ ấy, ở cái mộc mạc tự tin của ngôn ngữ, tuy bề ngoài lãnh đạm mà bên trong
chất chứa nhiều kỳ vọng.