Nói quyền được hợp tác nghiên cứu khoa học là nói dối.
Một cá nhân ở trường đại học này hợp tác ở một trường đại học khác thì cái trường
đại học đó phải chủ trì, giữ bản quyền và bài báo đó phải đứng tên tập thể.
Vụ việc PGS-TS Đinh Công Hướng thừa nhận, khi đang làm giảng viên chính của Trường Đại học Quy Nhơn đã bán 13 công trình nghiên cứu khoa học cho Trường Đại học Tôn Đức Thắng và Trường Đại học Thủ Dầu Một, thực sự được dư luận quan tâm.
Tác giả Chu Mộng Long (TS Châu Minh Hùng hiện nay công tác tại
Trường Đại học Quy Nhơn) đã lên tiếng trên Facebook cá nhân khá mạnh mẽ.
Sau bài đầu tiên của Chu Mộng Long, PGS -TS Nguyễn Hữu
Sơn đã có vài lời “nhắn nhủ” khiến Chu Mộng Long viết tiếp bài thứ hai.
Xin giới thiệu cả hai bài để có tư liệu hiểu rõ cuộc bút
chiến có màu sắc lâm ly.
Bài 1:
KHOA HỌC VÀ NHÀ KHOA HỌC VIỆT NAM: CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tôi chưa có điều kiện lấy số liệu cụ thể, nhưng qua
báo cáo tài chính của một trường đại học, đủ thấy ngân sách chi nghiên cứu khoa
học cho đại học ở Việt Nam không nhỏ so với các hoạt động khác. Nhưng việc phân
bố và hiệu quả như thế nào thì ai cũng biết. Phân bố tiền vào túi một nhóm người
và hiệu quả cũng chỉ để tô son cho các học hàm, học vị. Cần giải thiêng cái
"đền thiêng" này bắt đầu từ sự lãng phí trong chi phí nghiên cứu khoa
học mà nhiều giáo sư tiến sĩ coi đó là niềm vinh quang.
Với số tiền hàng chục tỉ, trường đại học nào cũng cố gắng
chi hết (vì nếu không hết sẽ bị trả lại hoặc bị cắt giảm năm sau). Vì thế,
ngoài chi cho đề tài trọng điểm, còn lại phân bố theo mặt trận. Trọng điểm thì
chi hàng trăm triệu đến bạc tỉ, còn mặt trận thì chia nhỏ đến mươi triệu. Kết
quả, đa số các công trình dù là trọng điểm hay mặt trận đều mang tính đối phó.
Nhiều đề tài đối phó đến mức cóp chép hoặc xào nấu lại các công trình trước đó,
nhưng khi nghiệm thu phải cho qua. Rất ít cá nhân làm một cách tâm huyết. Ngoài
các đề tài khoa học cơ bản, không thể biết giá trị tới đâu, còn ứng dụng thì
coi như con số không. Trừ các giảng viên biết ứng dụng trong công việc dạy học
của mình hoặc làm tốt việc phổ biến trong nội bộ bộ môn, đại đa số bị nhốt
trong kho và làm mồi cho mối mọt. Chỉ thấy một hiệu quả là giảng viên dùng để
trừ giờ chuẩn nghiên cứu khoa học, để đáp ứng chuẩn giảng viên chính, và để
phong học hàm phó giáo sư, giáo sư.
Nói nghiêm túc, nhiều công trình tiếng Việt thì dùng từ,
viết câu sai tiếng Việt, đến Từ điển chính tả cũng sai chính tả tràn lan. Nhiều
công trình văn hoá thì phản văn hoá, tuyên truyền cổ vũ cả tập tục cổ hũ và mê
tín dị đoan. Công trình khoa học công nghệ thì kém xa anh dân quê làm nấm sò và
anh thợ cơ khí độ chế máy móc...
Một chính sách tệ hại mà khi ngồi hội đồng quy chế chi
tiêu nội bộ, tôi phải lên tiếng nhiều lần. Rằng tại sao quy định của nhà nước
cho phép lấy thừa giờ giảng dạy bù sang giờ nghiên cứu khoa học nếu thiếu, thì
lại không được phép làm ngược lại? Nhiều giảng viên thừa đến cả ngàn giờ nghiên
cứu khoa học, nhưng chẳng để làm gì cả nếu không có nhu cầu lấy số lượng công
trình đó để làm phó giáo sư, giáo sư. Và hiển nhiên, khi đã có học hàm phó giáo
sư, giáo sư, để công trình của mình không vô nghĩa, buộc người ta phải đem ra
bán cho một trường đại học khác có nhu cầu xếp hạng cao. Tất nhiên là hạng ảo để
lừa dân, vì thực lực trường đó có khi chỉ là... mấy cái lu nướng!
Lãng phí đầu tư nghiên cứu khoa học, kéo theo lãng phí
nhân lực và chảy máu chất xám, nếu thành phần giảng viên đó có năng lực thật sự.
Viết một bài báo trong nước hay quốc tế, hiện nay đều
phải chi tiền. In thành sách thì càng tốn nhiều tiền. Không nói ra, ai trong
ngành cũng biết, nhiều tạp chí chuyên ngành trong nước lẫn "quốc tế"
còn vòi tiền hoặc rao giá để người đăng bài bỏ nhiều tiền ra chạy. Còn muốn
hoàn thành một bài báo hay công trình có chất lượng thì có khi mất sức ngang bằng
hiến một quả thận. Nhưng bán thận còn được có tiền, ở đây đăng báo, in sách lại
phải mất tiền. Vậy là buộc phải bán cho những kẻ gian lận. Có khi không chỉ để
trường đại học không có năng lực được xếp hạng cao mà còn có thể bán cho nghiên
cứu sinh đưa vào hồ sơ tiến sĩ và bán cho tiến sĩ dỏm làm phó giáo sư, giáo sư.
Nói quyền được hợp tác nghiên cứu khoa học là nói dối.
Một cá nhân ở trường đại học này hợp tác ở một trường đại học khác thì cái trường
đại học đó phải chủ trì, giữ bản quyền và bài báo đó phải đứng tên tập thể. Người
nào từng hợp tác nghiên cứu với đại học ở nước ngoài ắt biết rõ điều này. Không
có chuyện hợp tác mà bài báo lại mang tên chỉ một cá nhân, cá nhân cơ hữu ở trường
đại học này lại dạng chân đứng tên cơ hữu cho một trường đại học khác. Sự gian
lận ấy không thể biện minh!
Việc đem bài báo của mình bán cho nghiên cứu sinh hay
tiến sĩ làm phó giáo sư, phó giáo sư làm giáo sư, sự gian lận càng nghiêm trọng
hơn, bởi chính nó đẻ ra toàn tiến sĩ dỏm, phó giáo sư, giáo sư dỏm ăn lương cao
đến nát ngân sách!
Khi tiêu chuẩn mở ngành, tiêu chuẩn hướng dẫn luận
văn, luận án, kể cả chỉ tiêu tuyển sinh dựa vào giảng viên cơ hữu có học hàm, học
vị, thì những sự gian lận trên đã biến giáo dục thành cái chợ đen lừa đảo với sự
công khai hàng giả, hàng lậu.
Từ khi Bộ Giáo dục và Đào tạo nâng tiêu chuẩn nghiên cứu
sinh, phó giáo sư, giáo sư phải có bài báo quốc tế, tôi nói ngay là chỉ để làm
sang mà không có hiệu quả gì. Tiêu chuẩn cao so với năng lực vốn có, ắt vô số kẻ
chạy bài báo hoặc tìm cách mua cho bằng được. Hiệu quả, dẫu là một bài báo có
chất lượng quốc tế, chắc gì đã ích nước lợi dân? Một bài báo đăng tạp chí trong
nước mà có khi không có người đọc, huống hồ là đăng ở tạp chí quốc tế khi mà
trí thức Việt chẳng mấy ai đọc được tiếng Anh.
Bài báo quốc tế ở trường đại học trên thế giới, phải bắt
đầu ảnh hưởng trong trường đại học đó, ảnh hưởng đến cả quốc gia rồi mới lan ra
thế giới. Trong khi bài báo quốc tế ở ta, dù chất lượng cao đi nữa, thì trí thức
trong nước vẫn mù tịt. Ai thử chứng minh ảnh hưởng học thuật và ứng dụng của một
bài báo quốc tế nào đó cho tôi xem? Nếu không thì chẳng phải trưởng giả học làm
sang à?
Tôi thử đọc một bài báo khoa học xã hội nhân văn đăng
trên tạp chí quốc tế thì thấy rởm hơn cả đăng tạp chí trong nước. Sơ sài có 4
trang mà 7 người đứng tên với các chuyên ngành khác nhau. Cú pháp tiếng Anh thì
chỉ trình độ A. Nội dung sơ sài đến mức như một bài văn miêu tả tiểu học. Giá
trị học thuật gần như không có, nhưng không hiểu sao vẫn được đăng? Có phải vì
chuyện xó bếp của xứ Việt được thằng Tây lông cho là mới mẻ?
Việc khoe bài báo quốc tế để làm sang như vậy chẳng
khác mấy mụ nhà quê chân đất mặc váy ngắn đi nhảy đầm!
Dân đóng thuế nuôi bọn trưởng giả học làm sang thì là
cái xã hội gì vậy? Một giáo sư, tiến sĩ khoe có hàng trăm công trình, bài báo
trong nước, hàng chục bài báo quốc tế để lòe, chẳng khác tô son trát phấn lên
cái tổ mối để dân tưởng là thần thánh cần được tôn thờ. Xấu hổ chết đi được khi
một nền giáo dục mang danh khai phóng mà lại làm cho dân thêm ngu muội khi phải
đóng tiền nuôi những giấc mơ đồng bóng!
CHU MỘNG LONG
Bài 2:
LẠI DẤM DẲNG ĐÁNH TRÁO "BÁN LẬU" VỚI "HỢP
TÁC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC"
PGS Đinh Công Hướng nhận lỗi ngay sau khi bị phát hiện
bán lậu bài báo quốc tế để đứng tên cho hai trường Tôn Đức Thắng và Thủ Dầu Một.
Anh ta biết lỗi và đã xin lỗi. Lẽ ra nên tha thứ cho anh ta, không nên nói đi
nói lại nhiều lần.
Nhưng các giáo sư lại dấm dẳng đánh tráo khái niệm giữa
"bán lậu" và "hợp tác nghiên cứu khoa học". Tư cách đánh
tráo như vậy đã chứng tỏ, nhân lộ vụ ông Hướng, các giáo sư tự lộ mặt thật
"rất tử tế" của mình.
Và "rất tử tế" khi PGS. Nguyễn Hữu Sơn (Viện
Văn học) chuyển cho bài báo của Lê Thanh Phong đăng trên Báo Lao động với lời
ngỏ: "... Thay MỘT LỜI NHỎ NHẸ với nh.à Gi.áo, TS. tầm cao cao cao Chrâu
Mi.nh Hù.ng (Chu Mộng LNong)..." Khen ông chơi chữ ở tầm cao của Nhật Tân
đấy! Chơi chữ tầm cao như vậy, cho nên ông dùng chữ trong tranh luận khoa học
cũng ở tầm rất cao, "rất tử tế", ông Sơn hè?
Tôi thì không "tử tế đểu" mà "tử tế thật"
khi đặt cho ông và các giáo sư ủng hộ ông hai câu hỏi, các ông trả lời được thì
tôi mới nể:
1) Ông Hướng là giảng viên cơ hữu của Trường Đại học
Quy Nhơn. Theo Điều 3 Thông tư 45/2014/TT-BGDĐT, ông Hướng chỉ được phép đứng
tên cơ hữu cho trường khác khi ông không là viên chức của Trường Đại học Quy
Nhơn nữa.
Trích: “Giảng viên cơ hữu là người lao động ký hợp đồng
lao động có thời hạn 03 năm hoặc hợp đồng không xác định thời hạn theo Bộ luật
Lao động, không là công chức hoặc viên chức nhà nước, không đang làm việc theo
hợp đồng lao động có thời hạn từ 3 tháng trở lên với đơn vị sử dụng lao động
khác; do nhà trường trả lương và chi trả các khoản thuộc chế độ, chính sách đối
với người lao động theo các quy định hiện hành.”
Ông Hướng cùng lúc đứng tên lậu cho Trường Đại học Tôn
Đức Thắng và Trường Đại học Thủ Dầu Một để hai trường đại học đó được xếp hạng
cao, là gian lận hay liêm chính?
2) Nếu ông Hướng hợp tác nghiên cứu khoa học thì hợp
tác theo Hợp đồng nào? Hợp tác nghiên cứu khoa học với Trường Đại học Tôn Đức
Thắng, với Đại học Thủ Dầu Một thì ai chủ trì và hợp tác với ai? Tại sao tất cả
các bài báo trong cụm công trình của ông Hướng chỉ đứng tên cá nhân ông? Hay là
ông Hướng đã cướp công của tập thể thành của cá nhân? Hợp tác nghiên cứu và bán
lậu công trình khác nhau chỗ nào? Lập lờ, đánh tráo giữa "bán lậu" và
"hợp tác nghiên cứu" như vậy thì có liêm chính không?
Biết lỗi mà nhận lỗi, ông Hướng là người tử tế. Còn có
lỗi rành rành ra đó mà vẫn dấm dẳng ngụy biện, đánh tráo khái niệm thì có tử tế
không?
Nói thật với giáo sư tầm cao Nguyễn Hữu Sơn nhé. Lời
biện minh của các ông có mùi "rất tử tế" của các bị can trong vụ án
Chuyến bay giải cứu và Kittest Việt Á. Rằng, chúng tôi không phải "nhận hối
lộ" mà "nhận tiền biết ơn" của khách hàng.
CHU MỘNG LONG