Đứng trước một tập thơ, dường như điều khiến Chế Lan
Viên quan tâm nhất là tác giả/ những tác giả của nó đã thực sự “sống” hay chưa,
tức là đã thực sự cùng một chiều chiến đấu nghĩ suy với quần chúng...
ÔNG CHẾ BÌNH THƠ
HOÀI NAM
Trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1975, Chế Lan Viên
viết khỏe, viết đều, và dù luôn bám chắc mục tiêu phục vụ chính trị, thơ ông vẫn
có những tìm tòi đổi mới rất đáng kể, đủ để ông đồng hành được và trở thành một
trong vài nhà thơ lớn nhất của thời đại.
Không những thế, trong bối cảnh của một nền phê bình
văn học cách mạng còn tương đối mỏng về đội ngũ, thì Chế Lan Viên, với kiến văn
uyên bác, với tư duy chính luận sắc sảo, với bề dầy của “văn hóa thơ”, và nhất
là với ý thức kiên trì đeo bám đời sống sáng tác, đã thực sự đóng vai trò của một
cây bút phê bình thơ chủ lực, một người thẩm thơ đầy uy tín trên thi đàn.
Nhìn vào các cuốn sách mà Chế Lan Viên đã cho in: “Nói
chuyện văn thơ” (1960), “Phê bình văn học” (1961), “Vào nghề” (1962), “Suy nghĩ
và bình luận” (1962 - 1970), “Bay theo đường dân tộc đang bay” (1963 - 1976),
“Kinh nghiệm tổ chức sáng tác” (1951), “Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân”
(1976 - 1980), “Nàng tiên trên mặt đất” (1978 - 1983), “Ngoại vi thơ” (1975 -
1986) ta sẽ thấy rằng sách của ông, ngoài một vài cuốn thực chất là sách phổ biến
kiến thức văn chương, sách “dạy nghề” sáng tác, còn lại là tiểu luận phê bình
văn học “chính ngạch”, mà chủ yếu là viết về thơ.
Điều này, ngoài nhu cầu tự nhận thức vốn rất mạnh ở
con người sáng tác Chế Lan Viên, còn có một lý do khá dễ hiểu: với uy tín văn
chương và vị trí của một cán bộ “có gang có thép” trong làng văn nghệ, ông có
nhiều điều kiện để được viết (và phải viết) hơn nhiều người khác. Viết lời tựa
cho các tập thơ theo đề nghị của nhà xuất bản. Viết bài bình luận thơ do các
báo đặt. Viết tham luận nhân các hội thảo, hội nghị văn học trong và ngoài nước.
Vậy, phê bình thơ của Chế Lan Viên thực sự là gì trong khoảng 1954 - 1975?
Để nói một cách ngắn gọn quan điểm của người viết bài
này về phê bình thơ Chế Lan Viên có thể mượn nhan đề tham luận ông viết tại Đại
hội các nhà văn năm 1963, “Suy nghĩ trong những điều Đảng nghĩ”, diễn đạt
thành: “Phê bình thơ trong những điều Đảng nghĩ”. Theo tôi, cây phê bình thơ Chế
Lan Viên dù có rậm rịt cành nhánh đến đâu thì vẫn từ gốc này mà ra, nó là cái
chủ đạo, xuyên suốt.
Ngay trong tham luận này, ông tâm đắc trích dẫn tác giả
Trường Chinh: “Nghệ sĩ tốt theo quan điểm của chúng ta là nghệ sĩ xã hội chủ
nghĩa có tính Đảng cao, sống có lý tưởng, có hoài bão lớn: lý tưởng cộng sản chủ
nghĩa, hoài bão góp phần giải phóng cho nhân dân, giải phóng cho Tổ quốc, giải
phóng cho loài người thoát khỏi mọi áp bức bóc lột...” và thư Trung ương: “Văn
nghệ xã hội chủ nghĩa của ta phản ánh cái mới và đấu tranh cho cái mới thắng lợi.
Không những nó chỉ thể hiện cuộc sống mới và con người mới, mà nó còn tích cực
góp phần thúc đẩy cuộc sống mới phát triển, góp phần sáng tạo và giáo dục con
người mới” (Chế Lan Viên toàn tập, tập IV, NXB Văn học, 2009. Các trích dẫn
trong bài đều lấy từ toàn tập). Đó là lời dặn, mà cũng là lời yêu cầu, thậm chí
là mệnh lệnh đối với các văn nghệ sĩ cách mạng. Nó không nằm ngoài những quyết
định luận cơ bản: Văn nghệ phải cổ vũ ca ngợi cho công cuộc đấu tranh thống nhất
đất nước và xây dựng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng, văn nghệ phải
hướng về công nông binh, vừa như đối tượng phản ánh vừa như đối tượng phục vụ.
Phê bình thơ của Chế Lan Viên, những phán đoán giá trị
về thơ của ông, có thể nói, phần chủ yếu nhất chính là được xác định trong hệ tọa
độ này. Đứng trước một tập thơ, dường như điều khiến Chế Lan Viên quan tâm nhất
là tác giả/ những tác giả của nó đã thực sự “sống” hay chưa, tức là đã thực sự
cùng một chiều chiến đấu nghĩ suy với quần chúng, đã thực sự thấm những gian khổ
và vinh quang trong sự nghiệp cách mạng của quần chúng, đã thực sự hòa làm một
với quần chúng hay chưa? Nếu thực hiện được yêu cầu đó, thơ sẽ đạt tới hai giá
trị lớn: “phản ánh lịch sử” và “thực”.
Viết lời tựa cho tập thơ “Nhân dân tuyến lửa” (NXB Văn
học, 1970), ông sung sướng vì những tiếng thơ từ đất lửa Quảng Bình, Vĩnh Linh
đã phản ánh hiện thực lịch sử anh hùng của đất nước chống Mỹ tới độ cần thiết:
“Quảng Bình, Vĩnh Linh không có bề rộng của cả nước, nhưng đã có bề sâu và bề
cao anh hùng. Và những bài thơ nào, câu thơ nào tả được những hiện thực cao cả
hay sâu xa ở đây thì nơi khác đều có thể tiếp nhận, thưởng thức”. (Bài “Thơ của
nhân dân, thơ đầu tuyến lửa”, tập IV).
Trong bài “Cái sáo trong thơ”, ông trích mấy câu của
tác giả NN tả giấc mơ của vợ một người chiến sĩ đã hy sinh: “Đứa con nửa đêm giật
mình khóc/ Người vợ tưởng đâu còn năm trước/ Hơi thở của chồng ra ấm áo/ Quờ
tay mới biết là chiêm bao/ Nhớ lại chồng xưa hay hút thuốc/ Mùi hơi năm ấy thoảng
đi đâu”, và bình luận: “Tả một giấc mơ, nhưng thật xa các giấc điệp mơ màng từ
trước, thật là giấc mơ của một người đàn bà nông dân, chính vì tác giả đã hiện
thực bằng những chi tiết rất sát đúng thực tế”.
Cũng như, tập thơ của nhân dân Quảng Bình, Vĩnh Linh sở
dĩ phản ánh được hiện thực lịch sử anh hùng và thuyết phục được ông đến thế, vì
nó là lời kể chân thực của những người trong cuộc về cuộc sống chiến đấu đang
diễn ra của chính họ: “Họ làm thơ như họ đánh giặc, cấy cầy, lấp hố bom, đi dân
công tải đạn, hồn nhiên thì cũng hồn nhiên như vậy, và ý thức thì cũng ý thức
như kia” (Bài “Thơ của nhân dân, thơ đầu tuyến lửa”, tập IV).
Năm 1961, viết “Mấy vấn đề về thơ qua Tuyển tập” (Tuyển
tập thơ Việt Nam 1945 - 1960), sau khi đã gác sang một bên những trường hợp
thành công, Chế Lan Viên băn khoăn về đại cục: “Tôi có cảm tưởng là những nhà
thơ chúng ta chưa thật nhuần nhuyễn với thời đại chúng ta, như những nhà thơ thời
Thơ Mới đã nhuần nhuyễn với giai cấp của họ, hoàn cảnh của họ”. Ông lý giải băn
khoăn này bằng cách nêu một băn khoăn khác: “Ta đã hiểu thời đại ta rồi, tốt lắm.
Ta đã yêu thời đại ta rồi, tốt hơn. Nhưng ta còn phải “mê” thời đại của ta hơn
nữa. Lý trí, tình cảm ta đã gắn liền với nó, nhưng còn máu huyết, thịt da ta?”.
Năm 1965, viết lời tựa cho tập thơ “Sức mới” của các
tác giả trẻ thời chống Mỹ (Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Vũ Quần
Phương, Phạm Ngọc Cảnh v.v...), ông đòi hỏi: “Chúng ta cần thấy chất thép sắc
nhọn hơn, và tiếng xung phong hào hùng hơn trong thơ các bạn. Phải cất cao hơn
tiếng nói của lý tưởng cách mạng trong thơ. Cái lý tưởng thôi thúc ám ảnh đến
thành một tâm trạng” (Bài “Đốt cháy hơn nữa ngọn lửa lý tưởng trong thơ bạn trẻ”,
tập IV). Cần phải ghi nhận một điều trên phương diện này: Chế Lan Viên dường
như ít khi bằng lòng với sự thể hiện tư tưởng, cả về mức độ cũng như nghệ thuật
thể hiện, của các tác giả “bình thường”. Với một nhà phê bình thơ sắc sảo, đầy
chất lý tính và đầy “nghiêm khắc” như Chế Lan Viên, đạt tới độ chuẩn mực, trở
thành mẫu hình điển phạm cho thơ ca của thời đại cách mạng chỉ có hai nhà thơ,
nhà hoạt động chính trị: Hồ Chí Minh và Tố Hữu.
Không thể không nói tới Chế Lan Viên ở mảng phê bình về
thơ của những người cùng thế hệ, cùng điểm xuất phát với ông: Những nhà thơ
trong phong trào Thơ Mới lãng mạn. Cụ thể, Chế Lan Viên đã viết bài “Trời mỗi
ngày mỗi sáng của Huy Cận” (1959, tập III) và bài “Một nhà thơ qua 15 năm cách
mạng: Tế Hanh” (1960, tập III). Ông luôn cố gắng tạo ra những liên hệ, đối chiếu
giữa thơ lãng mạn trước kia và thơ cách mạng bây giờ, giữa thơ của những tác giả
trước kia là lãng mạn và bây giờ là cách mạng. Chú ý tới giọng điệu, phong
cách, cá tính sáng tạo riêng của mỗi nhà thơ, song khi viết về những tác giả
này Chế Lan Viên quan tâm hơn cả là quá trình lột xác của họ, quá trình họ gột
rửa cái cũ để hòa mình vào cái mới, sống với cái mới, thấm cuộc sống lao động
và chiến đấu của quần chúng, của toàn dân tộc. Trong sự nhìn nhận của nhà phê
bình Chế Lan Viên, sự thay đổi này chính là thước đo giá trị nghệ thuật cơ bản
nhất đối với thơ của những nhà thơ “cũ”.
Ông vui mừng: “Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận,
Tế Hanh, nữ thi sĩ Anh Thơ... là những người từ thế giới một người đến với thế
giới nhiều người, từ thung lũng đau thương ra đến cánh đồng vui, là những người
xưa kia tự xé da thịt mình, nay đi vá lại thịt da và xây dựng mùa xuân”. Vượt
lên chính mình, những nhà thơ “cũ” đã nhịp bước cùng thế hệ nhà thơ “mới”, đồng
hành cùng dân tộc và góp phần làm nên một nền thơ cách mạng tràn đầy sức sống
(Bài “Từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui”, tập III).
Chế Lan Viên là một nhà thơ viết phê bình chứ không phải
một nhà phê bình viết phê bình. Nhưng đại đa số những vấn đề Chế Lan Viên “sờ tới”
đều là những vấn đề nằm ở trung tâm của nền thơ ca đương thời. Trong bối cảnh ấy,
cần phải khẳng định rằng ông Chế đã xuất hiện với tư cách nhà bình thơ lớn của
một thời.
Nguồn: Văn Nghệ Công
An