Thanh Tâm Tuyền đã đem tất cả những kỷ
niệm tuổi thơ nơi thôn dã xâu thành những màu sắc tượng trưng “màu xanh ôm bóng
trắng” bằng “sợi chỉ thần tiên” siêu thực để “nối
liền những vụn ngọc bỏ quên ngày cũ thành một lời ca lập dị trẻ con.
THANH TÂM TUYỀN: “Bài thơ hay là cái chết cuối cùng”
MAI BÁ ẤN
Được xem là thủ lĩnh của
nhóm Sáng Tạo trong thi ca miền Nam, chủ trương cách tân thơ của Thanh Tâm Tuyền
(1936-2006) tạo được tiếng vang, nhưng cũng đã có không ít người phản đối.
Phản đối chung chính là
sự thoát ly cách diễn đạt bằng vần điệu của thơ ca truyền thống (bao gồm cả Thơ
Mới giai đoạn 1932-1945). Chưa nói đến quan niệm thơ trong những phát biểu của
Thanh Tâm Tuyền, ở phạm vi bài viết này, xin được đề cập đến những quan niệm
thơ qua thực tế sáng tác của ông giai đoạn 1954-1975 ở miền Nam lúc ấy. Để thấy
rằng, thực chất, cách tân thơ của Thanh Tâm Tuyền, theo ông, vẫn không có gì xa
lạ.
Cách tân thơ của Thanh Tâm Tuyền vẫn khởi
xuất từ thơ ca truyền thống, có mới chăng là ông chỉ muốn tìm cách chuyển tải mới
để thơ đời hơn và thoát bớt mỹ từ hơn so với Thơ Mới trước đây. Ông muốn thơ
thoát ra khỏi những hơi thở vuốt ve của dĩ vãng, của những bi lụy tình, ít chất
“diễm thi” (love poem) hơn để đến với hiện thực trần trụi mang hơi thở cuộc đời.
Vượt qua những bài thơ mà nhân vật chính thường là những “tình nhân” để thay
vào đó là những con người bình thường với những nghề nghiệp bình thường. Từ những
cái bình thường ấy, ông tạo mối liên tưởng về thơ, đưa ra những quan niệm thơ
riêng. Đây là “người tài xế mặc áo đen” trên “chiếc xe hàng vắng” khách:
Người tài xế mặc áo đen
chiếc xe hàng vắng
mưa xứ nắng buồn dậy muộn
tình nhân thở dĩ vãng
vuốt ve
(Một bài
thơ).
Làm tài xế
mà vắng khách, chỉ có một mình trên chiếc xe không, trên quãng đường dài và vắng
thì rõ ràng là quá cô độc và buồn. Nhưng nỗi cô đơn ở đây hoàn toàn khác xa với
nỗi buồn trong Thơ Mới. Cái cô độc một mình trên hành trình thơ cũng giống như
nỗi cô độc của người lái xe vắng khách chạy giữa đường trường, hết xuống rồi
lên, hết ghé rồi sang; một thân một mình mải miết ruổi dong trên khắp cùng Nam
Bắc: Nếu đã đi từ Hà Nội xuống Hải
Phòng/ hay sang Bắc Ninh/ Nếu đã đi từ Sài Gòn xuống Vĩnh Long hay lên Thủ Dầu
Một/ Chuyến xe vẫn chỉ thuộc một mình. Ông ví nỗi cô độc của người
tài xế giống như một người uống rượu. Say rồi vẫn tự “rót rượu mà uống” để ta tự
làm vui ta trên suốt dặm hành trình. Và nỗi cô đơn của thơ cũng vậy: Như kẻ say rót rượu lấy mà uống/ Cho vui thêm cuộc
hành trình. Theo Thanh Tâm Tuyền, cái sự đơn độc một mình trên đường
vắng ấy chính là hành trình của một nhà thơ: (Đúng
rồi những người thù ghét thơ của tôi ơi)/ Cuộc
hành trình hoàn toàn cô độc (Trời sẫm).
Dù nói rằng
“Tôi không còn cô độc” (hay “cái tôi” thơ không còn cô độc), nhưng kỳ thực,
Thanh Tâm Tuyền luôn quan niệm: Cô độc chính là cội nguồn sáng tạo của thi ca!
Những “hội xuân” dù đông đảo hay “chật hẹp” cũng chỉ làm hồn thơ thêm “vướng
víu”: hôm qua mùa đông tôi cô đơn/ khi mọi người khép cửa đốt lửa sưởi tâm hồn/ dù chẳng được mời/ tôi trở dậy/ hội
xuân nào chật hẹp/ hồn tôi không
vướng víu bao nhiêu. Người ta đón mời thi sĩ vào cùng dự “hội xuân” có cả
một dàn “hợp xướng cúi chào”: Hỡi người
ngoài nghĩa địa/ tôi thay mặt đón
mời/ hội xuân luôn ngỏ cửa/ Hợp xướng/ Chúng
tôi cúi chào/ người đến trái tim
ngửa bàn tay; nhưng chàng thi sĩ đã chối từ, chấp nhận “đừng ai gọi
tôi là thi sĩ” cũng được; cho dù, tôi có phải chết trong cô đơn cũng cam lòng
và xin được chết trong tư thế tự do tột cùng của sự sáng tạo: Tôi đã chết nghẹn ngào/ ôm tình yêu tự do chật ngực/ tôi chết và chối từ/ đừng ai gọi tôi là thi sĩ. Hãy để yên “tôi
ngủ ngoài nghĩa địa một mình” cùng với những linh hồn cô độc. Chính sự cô-độc-tự-do
của nhà thơ bên cạnh những người “cùng cô độc” sẽ làm nên nỗi đau đích thực,
làm nên thi sĩ:
Hỡi người thi sĩ đau cô
độc
tôi khắc tặng người tấm
bia
Ở đây ngủ một người
muôn đời
thi sĩ
(Tôi không
còn cô độc).
Ông tuyên ngôn rất “thẳng thắn” ý thức
cách tân thơ của mình là: không đa đa cũng chẳng hề siêu thực mà chỉ là tiếng
nói “khởi từ ca dao sang tự do” thôi: không
đa đa siêu thực/ thẳng thắn/ khởi từ ca dao sang tự do (Một bài
thơ). Nhưng ta cũng từng biết, Thanh Tâm Tuyền là một người luôn tự tương phản
với chính mình để tự phủ định mình. Vì thế, dù tuyên bố “không đa đa siêu thực”,
nhưng sáng tác của ông lại là sự tổng hòa một cách nhuần nhuyễn các trào lưu,
trường phái sáng tác của phương Tây quyện hòa trong hồn ca dao dân tộc. Điều
ông quan tâm nhất chính là việc biến các trường phái thơ ấy nhập vào hồn cốt ca
dao một cách tự nhiên, và con đường cách tân chính là đi từ cách viết vần điệu
của ca dao sang cách viết phòng khoáng của thơ tự do.
Cho nên, tinh thần cách tân, “Sáng tạo”
của nhóm thơ do ông chủ trương vẫn xuất phát từ những “từ ngữ yêu thương, hiền
như lá cỏ” của lời ăn tiếng nói cha ông; của “thời cô đơn tuổi dại” tuổi học
trò mỗi dịp hè về quê đùa giỡn, “nghịch ngợm” giữa “bãi hoang, triền dốc, dòng
sông”: Sáng tạo lấy từ ngữ yêu đương,
hiền như lá cỏ, anh tìm tới thời cô đơn tuổi dại. Biết bao nhiêu quen thuộc lúc
mai kia nghỉ hè, chạy nhảy giữa bãi hoang, triền dốc núi, ngó xuống dòng sông
yêu như nghịch ngợm.
Thanh Tâm Tuyền đã đem tất cả những kỷ
niệm tuổi thơ nơi thôn dã xâu thành những màu sắc tượng trưng “màu xanh ôm bóng
trắng” bằng “sợi chỉ thần tiên” siêu thực để “nối
liền những vụn ngọc bỏ quên ngày cũ thành một lời ca lập dị trẻ con. Cái
“lời ca lập dị trẻ con” ấy kết thành “chuỗi ngọc muôn màu” từ “những mảnh đi
tan nát” để cho những chia lìa, đổ vỡ, nát tan kia không phải bỏ ta đi mà trở
thành quà tặng của “những-chưa-từ-biệt”: Chuỗi
ngọc muôn màu, những mảnh đi tan nát mang tặng em là những-chưa-từ-biệt (Mặt
trời tìm thấy). Vâng, cái cách nói “những mảnh đi tan nát”, “những-chưa-từ-biệt”
chính là “lời ca lập dị” của cách tân thơ được làm nên chính bởi Thanh Tâm Tuyền.
Rồi đây nữa,
vẫn là cái “hàng dậu” trong ca dao đó thôi, nhưng ai hỏi ta bên hàng dậu bằng
những chủ nghĩa siêu phàm, nào lãng mạn, lập thể, dã thú hay đa đa… thì cũng mặc.
Chỉ biết, bên “hàng dậu” ấy, Thanh Tâm Tuyền vẫn chỉ khe khẽ trưng bày những
“cây nhà lá vườn” bằng những “cử chỉ trữ tình tinh khiết”; thơ nhẹ nhàng, trong
veo như những “bước đi chim sẻ” trên mái “ngói nâu” thăm thẳm mắt ai nâu:
ai hỏi anh ngoài hàng dậu
lãng mạn lập thể siêu
thực
dã thú đa đa
tôi mở những trái cây
vườn nhà
cử chỉ trữ tình tinh
khiết
những bước đi văn nghệ
chim sẻ
mùa ngói nâu dựng vực mắt
nâu
(Chim).
Có lẽ, cái
sự cách tân của thơ ông, chính là ở cách nói như văn xuôi cùng liên tưởng lạ đầy
biểu tượng của hai câu cuối ở trên. Hồn nhiên như thế, ông trở thành “thi sĩ ca
dao”, cho thơ buông nhè nhẹ những nhát cuốc xới lên ruộng đồng như xới lần tà
áo mỏng trên thân thể để khai thác, thâm canh trên cánh đồng thơ: Hồn nhiên tôi trở thành thi sĩ ca dao nhẹ những
nhát cuốc đầu xới lần áo mỏng ruộng đồng. Rồi những hình ảnh chân mộc
với “mưa về ngủ trên mái rạ”, bên cửa biển, bên bến sông, bên quán rượu quê… rồi
cùng bè bạn hứng mưa, thân thương, gần gũi giữa “đêm hiền lành”, nhìn “giọt mưa
đẹp như mắt ngủ”, tâm hồn sáng trong như một “cánh đồng chưa khai phá”.
Cách tân ở đây chính là lối thơ tự do
không câu nệ vần vè cùng tư duy tượng trưng, siêu thực mới lạ này: “nghe mưa
trên vừng trán vô tư”, mưa thấm vào “giác quan”, từ đó mở ra những lối mới, những
ngõ lạ để đi vào chiếm lĩnh hồn người: Tôi
sẽ mời anh về nghe mưa trên vừng trán vô tư, giác quan mở những ngõ lạ xuống
linh hồn. Chúng ta ngủ ngoài mưa như mơ ngủ. Thoát khỏi cái cũ, thực
chất là thơ đi từ ca dao trên cánh đồng làng “ra thành thị”. Xưa, thơ gắn với
hoa cỏ đồng làng; đến thị thành, thơ biết thêm “màu hoa dã thú một hơi thở tự
do” để làm phong phú thêm cho muôn màu hoa cỏ mà thôi:
Một ngày, tôi theo anh
ra thành thị
để chọn một màu hoa dã
thú
một hơi thở tự do.
Hồn nhiên tôi trở thành
thi sĩ ca dao
(Mưa ngủ).
Hơi thở ca
dao vẫn bám riết thơ Thanh Tâm Tuyền. Vẫn còn đó “hội làng”, vẫn “trèo lên cây
bưởi”, vẫn “đám cưới mùa xuân”… Chỉ có khác là cách chuyển từ “thơ điệu ngâm”
sang “thơ điệu nói” cùng lối tư duy của hai câu cuối: sao
chưa dừng lại em ơi/ trong kia làng mở hội/ em vào vườn trèo lên cây bưởi/ mời
mọi người dự đám cưới đôi ta/ mùa xuân làm bà mối/ người yêu nắm cánh tay/ hình
ảnh ngoài trời ngỡ vỡ con ngươi/ chúng tôi chạy trên mùa xuân (Người
yêu).
Bên cạnh sự
cô độc tuyệt đối khi làm thơ, Thanh Tâm Tuyền còn quan niệm, cõi thơ của mỗi
nhà thơ là vùng đất mà ở đó, nhà thơ tự do tuyệt đối cùng tất cả “quyền uy” của
một người làm thơ với “luật lệ” cai trị riêng, ai bước vào “lãnh thổ” ấy buộc
“phải thần phục” tự do mọi mặt của nhà thơ. Và lúc đó, người đọc cũng được quyền
hoàn toàn tự do tiếp nhận nó hoặc có thể tự do “ném cuốn sách ra cửa sổ” nếu
không muốn tiếp nhận:
Ở đây tôi là vị hoàng đế
đầy đủ quyền uy
bởi vì người vào trong
đất đai của tôi
người hoàn toàn tự do
để cai trị tôi có những
luật lệ
tinh thần mà người phải
thần phục
nếu người muốn nhập
lãnh thổ
người hoàn toàn tự do
và có thể ném cuốn sách
ra cửa sổ
(Ở đây tôi
là vị hoàng đế).
Trong Tạp
chí Văn, số đặc biệt về Thanh Tâm Tuyền (tháng 11/1973), nhà nghiên cứu Lê Huy
Oanh cũng đã từng thú nhận như thế: “trước đó tôi đã quẳng tập thơ qua cửa sổ,
rồi lại nhặt lên, trân trối nhìn nó một hồi lâu trước khi từ từ, rất từ từ ấp
nó vào ngực”. Nói về cách tân thơ của Thanh Tâm Tuyền, nhà phê bình Đặng Tiến
cho rằng: “Thơ xưa đem tư tưởng ra “diễn ca”, còn Thanh Tâm Tuyền tháo gỡ guồng
máy ngôn ngữ ra từng bộ phận rồi lắp ghép lại thành những chức năng mới, trong
văn bản mới” (Đặng Tiến, Thanh Tâm Tuyền, Talawas
4/4/2006).
Lấy cô đơn,
sự tự do tuyệt đối làm cơ sở xuất phát của thi ca, Thanh Tâm Tuyền quan niệm, sức
sống của thơ không phải được làm nên bởi những hào quang ngụy tạo hay những
thêu dệt về tên tuổi của nhà thơ, mà chính là tác phẩm của nhà thơ ấy: hoàn thành bao nhiêu tác phẩm/ chỉ để sau rốt kết luận một lời/ anh hãy từ biệt mọi người bằng tác phẩm của
anh (Định nghĩa một bài thơ hay). Một nhà thơ muốn đổi mới thơ mình
thì phải luôn thèm “giết” chính mình, “bóp cổ” chính mình. Nghĩa là phải luôn
là “phủ định của phủ định” thơ mình để mình được “phục sinh”:
tôi thèm giết tôi
loài sát nhân muôn đời
tôi gào tên tôi thảm
thiết
thanh tâm tuyền
bóp cổ tôi chết gục
để tôi được phục sinh
(Phục
sinh).
Ở đây,
chúng ta nhận ra, Thanh Tâm Tuyền đã đến gần với quan niệm thơ của Oetavio Paz:
“Để hoàn thành tác phẩm của Nietzsche, hãy phủ định chúng càng mạnh càng tốt. Ở
cuối con đường, cuộc chơi đang đợi chúng ta: một viễn cảnh hội hè, sự hoàn thiện
của tác phẩm, sự hiện thân sống động của nó trong khoảnh khắc và cả sự tan hủy
của nó” (Oetavio Paz - Bàn về thơ, hieutn1979.wordpress.com).
Chính vì vậy, Thanh Tâm Tuyền rút ra “Định nghĩa một bài thơ hay” đại ý như
sau: “một câu thơ hay” không phải bởi sự hoa mỹ của ngôn từ hay bằng chủ nghĩa
này, trào lưu nọ, mà “câu thơ hay” phải “tự nhiên như lời nói” và “bài thơ
hay là cái chết cuối cùng”:
một câu thơ hay tự
nhiên như lời nói
bài thơ hay là cái chết
cuối cùng
(Định nghĩa
một bài thơ hay).
Oetavio Paz
cũng từng quan niệm: “thi ca là khoảnh khắc ngừng lại của thời gian. Thời gian
ngừng lại, hay nói đúng hơn: thời gian đã chết. Nhưng đó là một cái chết màu
nhiệm, chết để hoá thân thành thi ca” (trích theo Ngô Tự Lập, Thơ là cái chết của thời gian, chungta.com).
Tự “bóp cổ” mình để được “chết”, chết để chính mình được “phục sinh”. Cho nên: “bài
thơ hay là cái chết cuối cùng”.
Nguồn: Văn Nghệ