Nếu như thi ca, phân tích cuối cùng là ở chỗ nó là một
khả năng nào đó để xúc động trước những cảnh đời và cảnh thiên nhiên, để biến sự
xúc động êm dịu và nhất thời này thành những câu chữ hài hòa và có nhịp điệu,
thì dân tộc chúng ta đã luôn sở hữu cái bản năng thi ca này có thể gọi là ở trạng
thái thuần khiết...
Từ những ngả nào thơ đến?
HOÀI NAM
Cách nay cũng lâu lâu, nhà thơ, nhà phê bình Nguyễn Đức
Tùng (sinh sống tại Canada) đã xuất bản một cuốn sách khá thú vị về thơ:
"Thơ đến từ đâu". "Thơ đến từ đâu?", về bản chất, là một
câu hỏi truy nguyên, và nó khiến tôi, trên cùng một ý hướng, phải hỏi cách khác
đi: "Từ những ngả nào, thơ đến?". Đây là câu hỏi mà tôi tự đặt ra cho
mình như một nghi án cần hóa giải, nếu phải chi tiết hơn nữa, sẽ là: "Tại
sao nhiều người, rất nhiều người, lại chọn thơ, chứ không phải một thể loại nào
khác, cho sự thực hành viết/ sáng tác văn chương của mình?". Cũng cần nói
ngay, câu hỏi "Từ những ngả nào, thơ đến?" ấy là sự thắc mắc trên nền
cảnh Việt Nam, một nước vốn nức tiếng là "thi quốc", nơi thơ có truyền
thống cực kỳ sâu gốc bền rễ, nơi mà ta thật không khó để thấy ngay cái hiện tượng
này: nhà nhà làm thơ, người người làm thơ, các thi tập in ra không đếm xuể, câu
lạc bộ thơ các cấp, các dạng mọc lên bạt ngàn tươi tốt và hội viên thơ của Hội
Nhà văn Việt Nam thì luôn đông đến mức áp đảo tuyệt đối hội viên thuộc các
chuyên ngành khác, nếu xét về số lượng.
Có thể là vì tâm hồn người Việt Nam chúng ta thiên về
lãng mạn trữ tình, rất hợp với thơ (nên mới có sự kiện là số lượng người làm
thơ luôn cao vọt chăng?). Điều này thì ông chủ bút "Nam Phong tạp
chí" đã từng quả quyết trong bài diễn thuyết giữa thủ đô Paris hoa lệ của
Pháp năm 1922: "Nếu như thi ca, phân tích cuối cùng là ở chỗ nó là một khả
năng nào đó để xúc động trước những cảnh đời và cảnh thiên nhiên, để biến sự
xúc động êm dịu và nhất thời này thành những câu chữ hài hòa và có nhịp điệu,
thì dân tộc chúng ta đã luôn sở hữu cái bản năng thi ca này có thể gọi là ở trạng
thái thuần khiết... Tiếng nói của chúng ta như hát với một gam những thanh điệu
làm cho những người ngoại quốc muốn hóa thành người Nam đành phải thất vọng.
Chính vì vậy nên qua nhiều thế kỷ, bản năng thi ca và thứ ngôn ngữ đầy tính nhạc
ấy đã hình thành một nền văn chương bình dân của nước Nam phong phú, bao gồm những
bài hát, những bài thơ hai câu, những ngạn ngữ và tục ngữ, những câu nói ít hay
nhiều có vần, có ẩn dụ, hình ảnh, có sự so sánh nhiều chất thơ..." (Phạm
Quỳnh, bài "Thơ nước Nam", in trong "Tiểu luận viết bằng tiếng
Pháp năm 1922 - 1932", Nguyễn Xuân Khánh dịch).
Đoạn văn dài, nhưng ta chỉ cần chú ý đến những từ
"xúc động" và "nhất thời" mà học giả Phạm Quỳnh đã nói. Đó
chính là những từ khóa quan trọng có thể cho ta thấy phần nào cái bí mật của việc
rất, rất nhiều người Việt Nam chọn thơ cho sự "thực hành viết" của
mình. Tôi muốn diễn đạt theo cách khác: thơ, hơn bất cứ một thể loại nào, là sự
hồi đáp tức thì của cảm xúc con người trước những va đập, những tác động của
ngoại giới. Tâm hồn người Việt Nam, như giả định, rất nhạy cảm, nên cũng rất dễ
rung động trước các hình sắc, mùi vị, âm thanh và những chuyển biến của thế giới,
và vì thế dễ có sự tuôn trào của thơ. Có lẽ không ai phát biểu cái ý này về
thơ, và phát biểu bằng thơ, hay như "ông hoàng thơ tình" Xuân Diệu,
trong "Lời thơ vào tập Gửi hương":
Tôi là con chim đến từ núi lạ
Ngứa cổ hát chơi
Khi gió sớm vào reo um khóm lá
Khi trăng khuya lên ủ mộng xanh trời
Chim ngậm suối đậu trên cành bịn rịn
Kêu tự nhiên, nào biết bởi sao ca
Tiếng to nhỏ chẳng xui chùm trái chín
Khúc huy hoàng không giúp nở bông hoa
Hát vô ích, thế mà chim vỡ cổ
Héo tim xanh cho quá độ tài tình
Ca ánh sáng bao lần dây máu đỏ
Rồi một ngày sa rụng giữa bình minh
Tôi réo rắt, chẳng qua trời bắt vậy
Chiếc thuyền lòng, nước đẩy phải trôi theo
Gió đã thổi cho nên buồn phải dậy
Hồn vu vơ, tội ấy ở mây đèo...
Cũng chính từ quan điểm này mà ta có thể lý giải được
tại sao, chiếm một tỉ lệ cực cao, là những người sáng tác văn chương bắt đầu sự
nghiệp viết lách của mình bằng thơ. Tất nhiên trong số đó có nhiều người chung
thủy suốt đời với thơ, và đạt được những thành tựu đáng kể. Nhưng cũng không ít
người chỉ dan díu lúc đầu rồi nhanh chóng bỏ thơ để tìm đến và đi theo những nẻo
đường văn chương khác.
Ví như, trước năm 1945, nhiều nhà văn hiện thực chủ
nghĩa vào loại "nồng danh khét tiếng" như Nam Cao, Tô Hoài đều khởi sự
bằng thơ, những bài thơ lãng mạn trữ tình rập khuôn Thơ Mới chẳng mấy ai đọc,
và đương nhiên các ông cũng chẳng muốn nhớ làm gì. Mới đây nhà nghiên cứu Lại
Nguyên Ân còn cho tôi biết một chi tiết khá thú vị về Vũ Trọng Phụng: bài đăng
báo đầu tiên của nhà văn này hóa ra là... lời hai bài hát kiểu vọng cổ Nam Kỳ
(nghĩa là cũng vần cũng nhịp từa tựa như thơ mà phần đông vẫn quan niệm).
Sau này, ở "nhà số 4", tức Tạp chí Văn nghệ
quân đội, lại có nhiều nhà văn được đông đảo độc giả biết đến qua những tác phẩm
tiểu thuyết chiến tranh rất dày, rất dài, hiện thực khốc liệt chồng chéo, như
Nguyễn Trọng Oánh, Nam Hà, Khuất Quang Thụy..., thì khi lật giở chồng tạp chí
cũ, tôi mới "ngã ngửa người ra" là các ông cũng từng làm thơ, in thơ
khi còn trẻ, những bài thơ tất nhiên là vô cùng dạt dào cảm xúc. Hình như, càng
ở tuổi hoa niên bồng bột phấn khích thì người sáng tác văn chương càng nhạy cảm,
dễ rung động, dễ nhập hồn vào thơ để bộc phát thế giới tinh thần, cái "cây
đàn muôn điệu" của mình thì phải?
Nói một cách khác, đó chính là "cái Tình", một
nguồn quan trọng của thơ. Nhưng trong lý luận của văn chương cổ trung đại Việt
Nam, nhiều người lại nhấn mạnh hơn đến nguồn khác: "cái Ý". Ví như Lê
Hữu Trác: "Thơ cốt ở ý, ý có sâu xa, thơ mới hay". Tuy nhiên bản thân
"cái Ý" này của thơ cũng khó mà tách khỏi "cái Tình", nếu
muốn thơ thực sự là thơ chứ không phải một cái gì khác. Nhà phê bình Nguyễn
Hưng Quốc từng phân tích rất kỹ: "Trong thơ, ý không thể là trần trụi, là
nguyên chất ý. Ý phải nhập thân vào cảm xúc. Nhà thơ có một ý tưởng. Chưa đủ. Hắn
phải đợi ý tưởng ấy làm bồng lên trong lòng những luồng sóng vỗ. Cái nếp nhăn
trên trán phải biến thành nếp nhăn trong tâm hồn. Cảm xúc phải dào lên song
song với ý. Ý và cảm xúc" (Bài "Kinh nghiệm sáng tác", in trong
sách "Sống với chữ", Lotus Media, 2021).
Như vậy, cái "gen" cảm xúc của dân tộc được
di truyền hay cái "căn tạng" sáng tác của các cá nhân, kết hợp với
"cái Ý" nữa, có thể là những nguồn, những lời giải tương đối cho câu
hỏi "Từ những ngả nào, thơ đến?". Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Trong
công trình có tên "Tự chủ văn chương và sứ mệnh tự do", xuất bản năm
2023 - đoạt giải Lý luận phê bình của Hội Nhà văn Việt Nam cùng năm - hai nhà
nghiên cứu Phùng Ngọc Kiên và Đoàn Ánh Dương đã dựa trên lý thuyết trường văn học
của nhà xã hội học văn học người Pháp Pierre Bourdieu để tìm hiểu sự hình thành
trường văn học thuộc địa ở Việt Nam trước năm 1945.
Họ đã thống kê, phân tích, so sánh khá nhiều trường hợp
các tác giả văn xuôi và các tác giả thơ thời kỳ ấy, để khẳng định rằng: dẫu có
mang tinh thần "vô vị lợi" đến đâu thì việc lựa chọn thơ để có một chỗ
đứng nhất định trong đời sống văn chương cũng vẫn là một lựa chọn, một lựa chọn
"gắn với những cấu trúc xã hội bề sâu, dựa trên những số vốn, số tư bản xã
hội và văn chương mà mỗi cá nhân hay cộng đồng thừa kế và đầu tư vào một không
gian và vị thế tiềm năng".
Trình bày cụ thể vấn đề này khá tốn thời gian, nên tôi
sẽ nói ngay về một kết luận... giật mình, nhưng cũng rất thú vị: "Khoảng
thời gian cần thiết để những tay mơ chính thức bước vào trường văn học như một
nhà thơ ngắn hơn rất nhiều so với một nhà văn. Như vậy, để bước vào trường văn
học đang thành hình đầu thế kỷ, những tác giả ở tỉnh lẻ càng xa so với trung
tâm là những đô thị như Hà Nội thì càng cần lựa chọn tấm vé có giá trị nhỏ nhất,
nghĩa là vừa với "túi tiền" của họ, vừa với khả năng đầu tư về mặt giá
trị tài chính nhưng nhanh chóng thu lại được giá trị tượng trưng. Thi ca là một
trong những loại hình cho phép lựa chọn hành động đạt đến hiệu quả cao nhất, vượt
qua được khoảng cách không gian địa lý, và rút ngắn thời gian chờ đợi để được
tham dự".
Một thế kỷ đã đi qua, bao nhiêu thăng trầm dâu bể, bao
nhiêu nước đã chảy dưới chân cầu, đời sống văn chương Việt Nam đương đại cũng
chịu nhiều tác động khác với quãng thời gian cách nay một thế kỷ. Nhưng những
gì mà hai tác giả cuốn "Tự chủ văn chương và sứ mệnh tự do" nói về việc
lựa chọn thơ của "các cụ" thời văn chương thuộc địa xem ra vẫn có thể
giúp ta, phần nào đó, trả lời câu hỏi "Từ những ngả nào, thơ đến?" thời
bây giờ. Tôi chỉ xin lưu ý một điểm: bàn về những ngả những nguồn đến của thơ,
chúng ta đang bàn trên những trường hợp thành công. Nhưng hỡi ôi, đấy chỉ là một
thiểu số trong một đa số mênh mông. Thi ca tưởng dễ dàng mà vô cùng khắc nghiệt.
Người làm thơ thì nhiều, nhưng thi sĩ đích thực thì luôn ít.
Nguồn: Văn Nghệ Công An