Với “The
Vietnam War”, ngay từ vài ba tập đầu đã tựa như cho người xem thấy: chính nghĩa
thuộc bên nào? Nhân dân ở cả nông thôn lẫn thành thị phía Nam ủng hộ ai? Vì sao
biện pháp gom dân vào ấp chiến lược của Mỹ và nhà cầm quyền Sài Gòn thất bại?
CÓ GÌ ĐÁNG CHÚ Ý Ở BỘ PHIM TÀI LIỆU “THE VIETNAM WAR”?
TÔ HOÀNG
Khi nhìn
lại cuộc chiến 10 năm chống Mỹ (1964-1975), có một số người vô tình hoặc cố ý
ngắt đoạn cuộc chiến tranh này với cuộc chiến tranh chống Pháp (1946-1954);
ngắt đoạn cả với thời kỳ “tìm đường cứu nước” của các vị tiên liệt Phan Đình
Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… Vì vậy, tính chất khách
qua, “điểm son “ đầu tiên nên giành cho hai tác giả Ken Burns và Lynn Novick qua
bộ phim “The Vietnam War” chính là ở chỗ họ đã nhìn ra được mối quan hệ khắng
khít giữa 2 cuộc chiến ấy.
“The
Vietnam War” là phim của người Mỹ. Dĩ nhiên, theo cách lý giải của họ, cuộc
chiến 1964-1975 là làm theo “cây gậy” chỉ đạo của Moskva và Bắc Kinh. Nhưng
ngay ở tập 1 và tập 2, bằng hình ảnh, bằng lời dẫn giải, thông điệp chuyển tới
người xem là: chính lãnh tụ Hồ Chí Minh và những người cộng sự của ông (chứ
không phải ai khác) đã giành được chính quyền với một Bản Tuyên ngôn Độc Lập và
một ngọn cờ đỏ sao vàng.
Khi Pháp
muốn lập lại ách đô hộ như cũ thì cũng chính lãnh tụ Hồ Chí Minh và các đồng sự
của ông dám tiến hành cuộc kháng chiến với chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động
năm châu, vang dội địa cầu” - đòn đánh chủ yếu và quyết định, kết thúc chế độ
thực dân ở Việt Nam. Vậy với lịch sử, hai cuộc chiến tranh ấy là một sự liên
tục, nhắm tới mục tiêu giải phóng dân tộc.
Ở tập 1
của “The Vietnam War”, Jonh Kennedy khi còn là nghị sỹ cũng đã le lói hiểu ra
điều này: “Những người Cộng sản dưới quyền Hồ Chí Minh cho rằng họ đấu tranh
cho độc lập còn Pháp thì cố giữ lấy thuộc địa. Vì thế tôi tin rằng trước khi Mỹ
có bất kỳ can dự nào, người dân phải được hưởng quyền độc lập và phải ủng hộ
cuộc đấu tranh đó”. Những cựu quân Nhân Mỹ, trả lời phỏng vấn trước máy quay “The
Vietnam War” cũng gần như thống nhất một điều: dần dà nhận ra họ đang chống lại
một dân tộc quyết giành giữ độc lập cho xứ sở mình.
Người
viết những dòng này, tuổi nhỏ theo cha mẹ lên vùng kháng chiến của Bác Hồ. Trở
về Hà Nội sau ngày Pháp rút quân, theo học cấp 1, cấp 2, cấp 3. Chiến tranh
chống Mỹ nổ ra, nhập ngũ. Đã có mặt tại mặt trận Bắc Quảng Trị- Khe Sanh vào 2
năm 1967-1968 ác liệt nhất; bước sang thời kỳ “phi Mỹ hóa” thì chuyển vào chiến
trường Tây Nguyên. Bằng vài dòng vắn gọn như vậy, tôi vừa là người xem cũng lại
là nhân chứng của những gì được miêu tả trong “The Vietnam War”.
Còn nhớ,
ngay những năm 1955, 1956 chúng tôi đã cất tiếng hát “miền Nam em dừa nhiều,
miền Nam em dứa nhiều”, đã đọc thuộc lòng bài thơ “Quê hương” của Giang Nam.
Vào những ngày chủ nhật được nhà trường tổ chức cho đến thăm các bạn cùng trang
lứa ở các trường “Học sinh miền Nam”, thăm các đơn vị của “các chú bộ đội miền
Nam tập kết”. Đến cuối năm cấp 2 đã tháo bảng đen ghi lên dòng chữ phẫn nộ phản
đối Luật 10/59, việc giết người bằng thuốc độc tại nhà tù Phú Lợi, để tham gia
các cuộc tuần hành trên đường phố…
Tất cả
những việc như vậy giúp chúng tôi hiểu rằng “đường cách mạng mới đi một nửa”. Những
năm sau này, tham gia chiến đấu, chúng tôi biết vanh vách những tướng lĩnh chỉ
huy giỏi nhất trên chiến trường như Lê Trọng Tấn, Hoàng Cầm, Hoàng Minh Thảo,
Chu Huy Mân, Nguyễn An…đều là những trung đoàn trưởng, sư trưởng tài ba, quả
cảm của chiến dịch Điện Biên Phủ năm xưa. Còn những “Việt Cộng nằm vùng” tại
miền Trung hoặc Nam Bộ không ai khác, đều là những học trò xuất xuất của Bác Hồ
như các ông Lê Duẩn, Phạm Hùng, Võ Chí Công, Trần Văn Trà…
Với “The
Vietnam War”, ngay từ vài ba tập đầu đã tựa như cho người xem thấy: chính nghĩa
thuộc bên nào? Nhân dân ở cả nông thôn lẫn thành thị phía Nam ủng hộ ai? Vì sao
biện pháp gom dân vào ấp chiến lược của Mỹ và nhà cầm quyền Sài Gòn thất bại?
Nhiều cựu chiến binh Mỹ kể lại một ấn tượng giống nhau: Nghe nói “Việt Cộng” ở
nơi này nơi kia, sục tới toàn là dân thường. Lính Mỹ thật khó phân biệt đâu là
dân đâu là lính “Việt Cộng”, “Việt Cộng” tác chiến không dàn tuyến mà “xuất quỷ
nhập thần”…
Chúng ta
hiểu, chỉ với một cuộc chiến tranh chính nghĩa, dựa vào dân, được dân đùm bọc,
chở che mới có thể tiến hành tác chiến như vậy được. “The Vietnam War” không
muốn hay không thể gọi thành tên, nhưng chúng ta nhận ngay ra hình thái của một
cuộc chiến tranh nhân dân quen thuộc.
Tiếp nối
qua các tập sau, từ hồi ức và suy ngẫm của các cựu chiến binh Mỹ tham chiến ở
Việt Nam đến băng ghi âm của các tướng 4, 5 sao của Mỹ, các cố vấn Mỹ, các
chuyên viên cao cấp của Nhà Trắng, hoặc Lầu Năm Góc khi luận bàn về tình hình
chiến trường… Thật thú vị khi chúng ta thấy như sáng bừng lên trước mắt các
phương châm chỉ đạo chiến lược, chiến thuật, các bài bản tác chiến, những ứng
biến để đập tan các âm mưu đối phương của “Việt Cộng” và Hà Nội.
Ra quân
trong trận Ấp Bác là lần đầu đối mặt với chiến thuật trực thăng thiết xa vận
của Mỹ, Quân Giải phóng tìm tới được phép giải con người là quyết định chiến
thắng, chứ không phải là vũ khí, trang bị kỹ thuật. Với chiến thắng Bình Giã là
bài học có thể đánh tan các đơn vị chủ lực lớn của đối phương. Sau các chiến
thắng ở An Khê, ở thung lũng Iadrăng, ở Pleime... Quân Giải phóng rút ra ngay
bài học bổ ích: Phải bám thắt lưng địch mà đánh, mới giảm thiểu được độ sát
thương của bom địch, pháo địch…
Những
phương châm chỉ đạo chiến lược, những quyết sách lớn như “2 chân, 3 mũi”, tiến
công quân sự- chính trị- ngoại giao phải hỗ trợ cho nhau, lấy yếu thắng mạnh,
tự lực tự cường, đánh địch kết hợp với địch vận, lấy nông thôn bao vây thành
thị… từ cơ quan đầu não trên R (Trung ương Cục miền Nam), từ Hà Nội- diễn tiến
qua từng tập trong “The Vietnam War” đều như là những minh chứng rành rõ.
Nói về
sức mạnh các phương tiện kỹ thuật Mỹ huy động vào cuộc chiến, phim “The Vietnam
War” kể tới trực thăng, giang thuyền, thiết xa, bom napal… Phim còn bỏ sót pháo
bầy, máy bay B52 ném bom rải thảm, đạn pháo 403 ly từ các pháo hạm của Hạm đội
7 ngoài biển bắn vào đất liền…
Trong
phim nói, Trung Quốc và Liên Xô viện trợ cho Hà Nội và “Việt Cộng” những thứ vũ
khí hiện đại? Chúng ta biết ơn sự ủng hộ của những người một thời cùng phe
phái. Nhưng cũng phải nói lên những sự thật cho công bằng. Trung Quốc chỉ giúp
ta quần áo, tăng võng, lương khô, xe tải “Trường Xuân”… tuyệt nhiên không chi
viện vũ khí. Liên Xô chuyển cho Việt nam máy bay Mig, tên lửa SAM chủ yếu để
phòng thủ và bảo vệ miền Bắc.
Với bộ
binh, hình như ông Cos, ông Bre không muốn “nhẩy vào cuộc” dễ biến cuộc chiến
Việt Nam thành chiến tranh thế giới nên chỉ chi viện xe tăng T.54, pháo 130 ly…
là những thứ họ đã sử dung trong thế chiến 2. Máy bộ đàm PC Nga vẫn chạy bằng
bình ắc quy, mỗi lần đi sạc điện là một lần đánh đổi bằng xương máu anh em.
Trước và
sau Mậu Thân 1968, trên các chiến trường xuất hiện tên lửa Nga-Xô. Thực ra đấy
là loại Cachiusa bắn giàn cũng được lính Xô Viết sử dụng trong cuộc chiến tranh
1941-1945. Chuyển sang Việt Nam, bắn bằng dàn lập tức máy bay trang bị rada của
Mỹ phát hiện ngay. Chúng ta nhấc quả đạn ra khỏi dàn, vác lên vai, vào trận
địa, đắp ụ đất đo kỹ góc nivo và phóng đạn đi...
Đặt lên
bàn cân những điều kiện bảo đảm chiến tranh quả là quá nghiêng lệch, nếu tổn
thất về phía ta có lớn hơn cũng là điều dễ hiểu. Khi tướng Wesmolen báo cáo về
Mỹ tỷ lệ tốn thất sinh mạng ta 10, Mỹ 1 thì người dân Mỹ gào lên “Họ chỉ cần
biết tới số 1”!
Phía
mình, biết bao nhiêu giọt nước mắt của các cấp chỉ huy chiến trường đã rơi trên
các trang tổng kết trận đánh, hoặc sau này trên những trang hồi ký, nhưng tất
cả đau khổ, xót xa ấy được an ủi bởi cuộc chiến đấu dữ dội, nhiều mất mát kia
đã đạt tới mục đích cuối cùng: Độc lập và Thống nhất!
Ghi lại
mấy đoạn từ “The Vietnam War”:
Thiếu tá
Mỹ Charles A. Beckwith, “người hùng” thời chiến tranh Triều Tiên sang Việt Nam
được đồng đội đặt cho biệt danh “Charles xông pha”. Nhà báo Mỹ Joe Galloway đi
theo ông ta tham dự các trận Ia Đrăng, Pleime, sau trận đánh nhà báo có cuộc
phỏng vấn nhanh:
-J.
Galoway: Quân Việt Cộng mà ông đánh ở đây là loại lính thế nào?
-Charles
A. Beckwith: Tôi sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để có được 200 người lính như họ.
-
J.Galoway: Tức là những người lính Việt Cộng?
-Charles
A. Beckwith: Đúng đấy! Họ là những người lính giỏi nhất mà tôi từng thấy. Họ
tận tâm và thuộc loại cừ khôi. Tôi chưa từng thấy lính nào giỏi như họ.
Merrill
McPeak, khi lái máy bay tiêm kích đánh phá đường Trường Sơn, mang hàm thiếu tá.
Sau khi rời Việt Nam, ông ta tiếp tục phục vụ trong quân ngũ lên tới hàm tướng,
với chức Tham mưu trưởng Không quân Mỹ. Trong “The Vietnam War”, ông kể lại: Bằng
phương tiện quan sát hiện đại gắn trên máy bay, ông ta có thể trông rõ từng vạt
cây ven đường rừng phủ bụi, từng khúc đường ở suối lên ướt nước, chứng tỏ có xe
vận tải chở súng đạn của “Bắc Việt” vừa chạy qua. Rằng, ông ta săn những chiếc
xe ấy như săn “những chú thỏ chạy dưới ánh đèn rọi”. Bắn nhiều rocket, thả
nhiều bom đến như vậy, nhưng không lực Mỹ không tài nào ngăn nổi sự vận chuyển
trên Trường Sơn…
Cho đến nay, Merrill McPeek vẫn ức tới nghẹn cổ. Và viên tướng nghỉ hưu ấy đi tới kết luận: Ông đã ủng hộ nhầm phe. Nếu có thể được, lý ra ngày ấy ông phải chiến đấu cùng đội ngũ với các chiến sỹ can trường, quả cảm ở bên phía “Bắc Việt”
“Kính chào Anh, những chàng trai chân đất/ Sống hiên ngang, bất khuất ở trên đời/ Như Thạch Sanh của thế kỷ 20”.