Người mở cõi và kẻ bám đất là hai đối tượng làm nên sức sống ‘rừng mắm”, được nhà văn Bình Nguyên Lộc phác thảo bằng vẻ đẹp độc đáo phương Nam.
Người mở cõi thể hiện khát vọng,
còn kẻ bám đất thể hiện ý chí, đây là hai thành tố quan trọng để có được Nam bộ
dài rộng hôm nay. Người mở cõi và kẻ bám đất xuất hiện trong nhiều câu ca nao
lòng nao dạ như “Hò… ơ, rồng
chầu ngoài Huế, ngựa
tế Đồng Nai/ Nước
sông trong sao cứ chảy hoài, thương
người xa xứ lạc loài đến đây.
Thế nhưng, thay vì tỉ mỉ biên
khảo như nhà văn Sơn Nam (1926-2008), thì nhà văn Bình Nguyên Lộc (1914-1987) lại
dùng các sáng tác văn học để phục dựng chân dung của người mở cõi và kẻ bám đất.
Nhà văn Bình Nguyên Lộc xuất
thân trong một gia đình đã trải qua nhiều đời ở Tân Uyên, Bình Dương. Trong di
sản của ông có khoảng 50 tiểu thuyết và hơn 1000 truyện ngắn, công chúng có thể
tìm thấy chiều kích văn hóa phương Nam theo bước chân di dân.
Tập truyện “Rừng mắm” là một
tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Bình Nguyên Lộc, mà ở đó ông dành nhiều tình cảm
trìu mến cho người mở
cõi và kẻ bám đất trong lịch sử khai hoang vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Truyện ngắn “Rừng
mắm” in lần đầu tiên vào năm 1968, kể về một gia đình ba thế
hệ, vì nghèo không có đất nên lưu lạc tới xứ U Minh để khai phá. Nơi định cư
bên bờ rạch được họ đặt tên là Ô Heo vì ban đầu là hang ổ của heo rừng và thú dữ.
Vùng đất không người đó vừa khắc nghiệt lại vừa rất nên thơ qua con mắt của cậu
thiếu niên tên Cộc, hứa hẹn rằng những đắng cay mà gia đình Cộc phải chịu lúc
này sẽ đem lại ngọt bùi khi người dân tứ xứ theo chân họ đến đây lập nghiệp, mở
ra một tương lai xán lạn.
Chỉ qua một truyện ngắn, Bình Nguyên Lộc
như tái hiện lại một phần lịch sử vùng Nam bộ buổi khai hoang, khi những người
Việt đầu tiên tìm đến thuần hóa đất đai. Khi đó, nơi này chẳng phải là vùng trù
phú mà vô cùng khắc nghiệt, sinh kế gian nan: “Để tránh nước mặn tràn bờ ngập
sân, tía nó đã đóng mười hai cây cọc, làm thành bốn cái giá ba chơn tréo như
giá trống của bọn đờn thổi đám ma. Trên mỗi giá, đặt một cái nồi lủng đít, và
trong nồi để đầy đất mà tía nó mang từ xa về. Đất ở đây mặn chát dùng không được.
Hành, ớt, rau răm, rau mồ om, được trồng trong mấy cái vườn cao cẳng đó. Đó là
bốn thứ tối cần, đất mặn bao nhiêu cũng phải lập thế mà trồng cho được, không
thôi không có món gia vị nào để ăn cá nữa”.
Gia
đình Cộc đã cố gắng để thuần hóa đất bằng sức người và sự tháo vát, để đất đem
lại cái ăn cho con người: “Ông
nội nó với tía nó đốt rừng tràm từ ngoài bờ rạch. Gió thổi vô rừng, và lửa, như
con vật khổng lồ, đã táp một cái vào khối thịt xanh um của rừng tràm nầy.” “Lúc
ruộng chín, cây lúa cao quá, ngã rạp xuống, để lòi trăm ngàn gốc tràm lên,
trông như ai đóng cọc để cất nhà sàn; năm xưa đốt rừng nhưng không đủ sức đánh
những gốc tràm tươi rói không cháy được nầy, tía thằng Cộc đành cấy lúa giữa những
gốc ấy”.
Họ đã cố gắng đẩy lui cái hoang dã để
giành lấy từng tấc đất cho con người. Ở tuổi bắt đầu biết bâng khuâng, cậu bé Cộc
“thèm người”, “thèm chè, thèm xưng xa, nhớ đám cúng đình, nhớ hát bội”, cho rằng
ở đây “mình có ruộng nhưng cũng khổ cả đời” và muốn đi nơi khác.
Thế nhưng,
ông nội đã bảo cho Cộc hiểu vì sao họ phải “hì hục năm năm trong đồng chua nước
mặn”: “Phù
sa là đất bùn mềm lủn và không bao giờ thành đất thịt được để ta hưởng nếu
không có rừng mắm mọc trên đó cho chắc đất. Một khi kia cây mắm sẽ ngã rạp. Giống
tràm lại nối ngôi mắm. Rồi sau mấy đời tràm, đất sẽ thuần, cây ăn trái mới mọc
được… Đời cây mắm tuy vô ích, nhưng không uổng, như là lính ngoài mặt trận vậy
mà. Họ ngã gục cho kẻ khác là con cháu của họ hưởng.”.
Nếu truyện
ngắn
“Rừng mắm” kể về lớp người mở cõi, thì truyện ngắn “Bám níu” lại được nhà văn Bình Nguyên Lộc hướng
về những kẻ bám
đất. Thông qua hoạt động hứng cá, tát vũng bắt cá của dân quê miền Đông Nam bộ
khi qua mùa nước lũ, ông nói lên thông điệp về việc giữ đất quê hương.
Trong lúc tát vũng, nhóm nhân vật trong
sách phát hiện có những con cá sông không “chạy” từ đồng ruộng ra sông lớn
trong đám mưa cuối mùa mà “lội ngược dòng” ở lại trong ao vũng. Lão Nghiệm,
nhân vật được mô tả là như “một tộc trưởng của thời xa xưa, rất nhiều kinh nghiệm
sống và nhiều khả năng chỉ đạo”, “cả xóm cả làng đều nghe theo lão”, đã phát biểu:
“Sở dĩ chúng nó không ‘chạy’ vì chúng nó
thương yêu cái nơi chôn nhau cắt rún của chúng, cố lội ngược dòng, bám níu để ở
lại nơi mà chúng nó chào đời. Bám
níu, ông bà ta đã bám níu, tao đã bám níu mới còn xóm nầy, làng nầy. Còn làng mới
còn nước mình”
Trong tập truyện “Rừng mắm”, rất nhiều lần nhà văn Bình Nguyên Lộc bày tỏ niềm
nhớ tiếc đối với cảnh cũ và người xưa
qua các truyện ngắn “Xe lửa Mỹ bung vành”, “Hồn ma cũ”, “Tình thơ dại”, “Chiếc khăn kỷ niệm”, “Tiếng thời gian”, Hương gây mùi nhớ”… Cảm hứng về thời gian, về sự biến thiên, tàn
phai, thay đổi có lẽ luôn hiện diện theo
suy tư ngổn ngang của tác giả.
Đồng thời, tập
truyện “Rừng mắm” cũng thể hiện rõ niềm hứng
thú, yêu thích mãnh liệt của nhà văn Bình
Nguyên Lộc đối với ngôn ngữ và tập quán của dân tộc,
đặc biệt là người dân Nam bộ. Ông say mê ghi chép lại tiếng nói địa phương và
cách sinh hoạt địa phương, mô tả đầy trìu mến những khung cảnh gắn liền với lối
sống một thời.
Dễ thấy nhất là những lúc Bình Nguyên Lộc
trở thành một nhà sưu tầm để
ghi lại định nghĩa một số từ ngữ Nam bộ: “Hứng” đây là hứng cá, một động từ địa
phương, đặc biệt của miền Đông Nam-Việt. Ở miền Đông Nam-Việt, nhứt là trong tỉnh
Biên Hòa, qua mùa nước lũ, con sông Đồng Nai ứa nước nguồn, bờ sông bành trướng
ra, xâm lấn đồng ruộng trong xa, cá sông thích lên để đẻ… Hễ những đám mưa cuối
mùa đổ xuống là chúng áp nhau mà “chạy”, tức là đổ xô nhau theo những con đường
nước từ đồng ruộng cao chảy xuống các rạch, các sông, để tìm về những khoảng
sinh tồn phong phú thực phẩm hơn… Dân miền đông rủ nhau đặt những giỏ mây hoặc
giỏ tre đan thật khít mặt… hứng bắt tất cả cá con đi tìm sanh lộ ấy. Họ đặt tên
chung là cá lạc mạ. Mạ, có lẽ là tiếng “mẹ” nói trại bẹ ra”.
Không chỉ phác thảo chân dung người mở cõi và kẻ bám đất, tập truyện “Rừng mắm”
cũng là một nguồn tư liệu phong phú về ngôn ngữ dân gian Nam Bộ. Đặc biệt, cái tình trên trang giấy của nhà văn Bình Nguyên Lộc thuở ấy vẫn
thấm vào lòng người hôm nay về ân
nghĩa tiền nhân: “Ông với lại tía của con là cây mắm,
chơn giẫm trong bùn. Đời con là tràm, chơn vẫn còn lấm bùn chút ít, nhưng đất
đã gần thuần rồi. Con cháu của con sẽ là xoài, mít, dừa, cau”.
NNVN