Cuộc chiến tranh hiện lên qua những trang văn của Vũ
Thị Hồng cũng đầy gian khổ và mang rõ cách nhìn của một người phụ nữ. Ghẻ lở, hắc
lào không chừa ai, nước không có để tắm. Đối với phụ nữ, thực sự đó là những cực
hình.
SỐNG LẠI CÙNG KÝ ỨC CHIẾN TRANH
TÔN PHƯƠNG LAN
1
Vũ Thị Hồng cùng các học viên khóa 4 - khóa mà Hội Nhà
văn Việt Nam kết hợp với Ban Thống nhất Trung ương chủ trương đào tạo riêng cho
chiến trường - đã giã từ Thủ đô yêu dấu, lên đường đến với các chiến trường ở
miền Nam vào một ngày giữa tháng 4/1971 sau một thời gian được học tập rèn luyện
và bồi dưỡng nghiệp vụ. Chị được phân vào khu 5 và cái duyên binh nghiệp đến với
chị cũng là một sự tình cờ: nhà văn Nguyên Ngọc nghe tin có một lực lượng văn
nghệ mới vào, đã trực tiếp sang xin để bổ sung cho Tạp chí Văn nghệ Quân
giải phóng Trung Trung Bộ đang cắm chốt ở vùng đất Quảng Nam. Chị cùng hai
đồng môn đồng khóa khác là Nguyễn Bảo và Nguyễn Hồng đã tình nguyện đầu quân.
Cuốn Chạm vào ký ức của Vũ Thị Hồng ra đời
khi chị đã đi qua ngưỡng tuổi bảy mươi, chủ yếu viết về khoảng thời gian bốn
năm còn lại đó của chiến tranh cho đến sau ngày giải phóng không lâu. Những năm
tháng đó, chiến trường Trung Trung Bộ thật sự là một địa bàn cực nóng. Cuốn tự
truyện của Vũ Thị Hồng dưới một cái nhìn khác đã góp vào để hoàn thiện thêm
gương mặt chiến tranh của vùng đất khu V nói chung và Quảng Nam nói riêng.
Mở đầu tập sách, Vũ Thị Hồng “nhẩn nha” kể về những
ngày đầu mới vào chiến trường, với bao nhiêu khó khăn nhưng chị đã tiếp nhận nó
với một thái độ vừa cố gắng vừa nhẫn nhịn, tạo sự tò mò và hấp dẫn với người đọc.
Từng động thái của chị luôn thể hiện sự quyết tâm theo đuổi đến cùng mục đích
ban đầu. Trong những ngày đầu đi thực tế chính những người phụ nữ được gặp, được
nghe trong Hội nghị Hậu cần thực sự là những tấm gương sống tác động đến Thục.
Chị “vừa thương vừa cảm phục” và thầm nghĩ không biết những người phụ nữ ấy lấy
đâu ra sức lực để vượt qua cái ngưỡng chịu đựng của bản thân mình như vậy: cả một
tiểu đoàn gần 500 chị em hầu hết là thanh niên nhưng bị mất kinh, mông teo, ngực
lép, mỗi lần gội đầu tóc rụng hàng búi…
Các chị có thể chịu đựng nỗi đau vết thương thể xác
như tiểu đội trưởng Mai, có thể làm mọi công việc nặng nhọc như mọi đàn ông mà
không hề hấn gì, nhưng nhìn nhan sắc của nhau xuống cấp nghiêm trọng với những
mái tóc ngày càng xơ xác, cụt ngủn thì đêm về “họ ôm nhau khóc ròng”. Đây là một
cách nhìn mang thiên tính nữ của Vũ Thị Hồng.
Cuộc chiến tranh hiện lên qua những trang văn của chị
cũng đầy gian khổ và mang rõ cách nhìn của một người phụ nữ. Ghẻ lở, hắc lào
không chừa ai, nước không có để tắm. Đối với phụ nữ, thực sự đó là những cực
hình. Rồi một người con gái vốn là y tá, nhỡ nhàng, uống thuốc phá thai không
thành, khiến Thục rất đau lòng khi cảm nhận cái chết cả về thể xác lẫn tinh thần
đang mỗi lúc một cận kề với cô. Nỗi đau đó như được nhân lên khi chị nghĩ đến
người mẹ cô gái ở miền Bắc làm sao có thể biết nguyên nhân cái chết của con
mình ở chiến trường.
Biết bao cái chết, biết bao sự hi sinh khác nhau qua
những con số biết nói, qua sự khuyết vắng những người thân quen trong những lần
Thục trở lại nơi mình từng đến công tác, được chứng kiến hoặc nghe qua bạn bè
tin tức về những đồng đội thân thiết, cảm mến của mình ngã xuống trong các trận
đánh khác nhau… cho thấy các cung bậc cảm xúc nhân ái trong tâm hồn và tình cảm
nồng nàn tình yêu con người và đất nước của cô gái trẻ Thủ đô đang trực tiếp
tham gia chiến tranh. Nhớ lại và ngẫm nghĩ. Chị đưa người đọc đi vào chiến
tranh bằng một thái độ bình tĩnh, vừa kể vừa tả và vì thế những trang viết của
chị chân thật, không dữ dội nhưng gợi cho người đọc hình dung ra sự khốc liệt đằng
sau mỗi câu chuyện, mỗi sự kiện.
2.
Chạm vào ký ức, với Vũ Thị Hồng, còn là chạm vào đời sống
của anh chị em làm báo viết văn - những người đi chiến trường, sống và viết ở
chiến trường cùng chị trong những tháng năm cam go nhất của cuộc chiến tranh,
cũng là thời kỳ bắt đầu cầm bút tập làm người chiến sĩ trên mặt trận văn nghệ với
mong muốn những trang viết của mình sẽ có ích cho cuộc chiến đấu. Nguyễn Hồng
là một hình ảnh đẹp về tinh thần trách nhiệm và lòng yêu nước. Đang ở tỉnh đội
đợi giao liên đến dẫn về nhưng tiếc những ngày nằm chờ, anh mượn một khẩu CKC
xuống đồng bằng cùng với một đại đội Điện Bàn cắm cờ chốt giữ đất. Đúng hôm ấy
bọn địch huy động cả một tiểu đoàn tấn công, ban chỉ huy đại đội bàn rút để bảo
toàn lực lượng.
Lúc đầu Hồng kiên quyết phản đối nhưng cuối cùng đành
đồng ý với điều kiện là “tôi sẽ ở lại chặn địch; bọn địch muốn vào được đây phải
bước qua xác tôi”. Anh là người cuối cùng ở lại trên mảnh đất cắm cờ giải
phóng... Đó là phóng viên nhiếp ảnh Xuân Quang rất năng nổ, xông xáo, thường đi
với các mũi chủ công và chụp được những bức ảnh có giá trị; là ông “mặt sắt”
quyết đoán nhưng luôn có mặt ở những nơi gian khổ ác liệt nhất, là Nguyên Ngọc
- một trong số những nhà văn vào chiến trường sớm nhất, lăn xả vào cuộc chiến đấu
giành đất, giành dân.
Các cây bút của đơn vị Thục thường đi ra mặt trận theo
các đơn vị chủ lực, hoặc đi xuống cơ sở. Viết rồi đi, đi để viết, viết để phục
vụ cuộc chiến đấu với trách nhiệm công dân - người lính. Họ hiện lên với tinh
thần tận hiến nhưng cũng mang cả sắc thái của đời thường, nhất là sau đợt chỉnh
huấn hằng năm, cơ quan lại tổ chức đánh giá, kiểm điểm từng cá nhân… Theo thời
gian, chị vẫn trở trăn tìm kiếm: càng có thêm nhiều tư liệu, có thêm nhiều ghi
chép về chiến công thầm lặng của nhân dân, chị càng nhận ra cái khoảng cách giữa
trang viết và cuộc đời…
Vào tháng 2/1975, bước vào một mùa chiến dịch mới, với
tâm thế của người đảng viên trẻ, chị lại tiếp tục theo chân các đơn vị đi chiến
dịch. Bất ngờ diễn biến cuộc chiến thay đổi sau khi quân địch thất thủ ở Buôn
Mê Thuột. Rồi Đà Nẵng được giải phóng. Chính quyền Việt Nam Cộng hoà tan rã
nhanh chóng. Chị lại háo hức với niềm vui của người viết được theo những người
lính giải phóng đi dọc suốt miền Trung, có mặt ngay tại Sài Gòn sau khi thành
phố được giải phóng. Và chị đã có những trang viết đầy cảm xúc khi những học
viên trong lớp viết văn khóa 4 cùng vào các chiến trường miền Nam, gặp nhau mừng
mừng tủi tủi và ngậm ngùi khi nhắc đến những người bạn đã không còn.
Những người lính làm báo viết văn ấy đã thay hình đổi
dạng vì gian khổ của chiến tranh nhưng đằng sau vẻ khắc khổ, gầy ốm là nụ cười
của tuổi trẻ, là hạnh phúc của những người chiến thắng, người còn được sống. Thục
lại theo tiếp các đơn vị đến một số tỉnh miền Tây, lên Đà Lạt. Cảm giác đó dẫu
đã gần năm mươi năm trôi qua, đến hôm nay trong chị vẫn như còn vẹn nguyên với
tất cả niềm sung sướng và hạnh phúc đến ngỡ ngàng…
3.
Gặp lại những chuyện trong quãng thời gian vô cùng
quan trọng của cuộc đời của một người cầm bút như chị, người đọc càng cảm phục
tinh thần của một thế hệ thanh niên nói chung và đội ngũ nhà văn chống Mỹ nói
riêng mà Vũ Thị Hồng là một trong số đó. Những trang viết của chị không có cái
dữ dội như cách viết của giới mày râu, thậm chí so với một vài cây bút nữ khác
như Lê Minh Khuê chẳng hạn.
Tuy nhiên, đọc chị, người ta cảm nhận được hơi thở
tươi nguyên của đời sống, của xúc cảm, và không khó để người đọc nhận ra đằng
sau nó còn rất nhiều vốn sống mà chị chưa khai thác hết. Văn chị giản dị như
con người chị nhưng vẫn có độ mở để kích thích trí tưởng tượng của người đọc.
Sau chiến tranh, viết vẫn là niềm đam mê của chị. Với niềm đam mê ấy và tài
năng, chị đã nhận được nhiều giải thưởng danh giá như Giải thưởng Bộ Quốc phòng
(1990-1995), Giải A cuộc thi tiểu thuyết do Bộ Nội vụ tổ chức…
Với ngần ấy thời gian ở chiến trường và ngần ấy giải thưởng nghề nghiệp cũng như những cống hiến trong những cương vị công tác sau này, Vũ Thị Hồng quả là một cây bút chiến sĩ xứng danh. Sau gần năm mươi năm, chị đã đưa bạn đọc sống lại những ngày gian khổ và ác liệt, ở đó chúng ta còn nhìn thấy qua chị là hình ảnh một thế hệ nhà văn nhà báo quân đội tham gia chiến tranh. Viết lại những gì đã đến với mình, chị đã đưa người đọc trở lại một thời gian khổ đầy vất vả, hi sinh với niềm vui của người chiến thắng, trong đó có niềm vui của người đã chiến thắng bản thân trong mọi hoàn cảnh trên hành trình để trở thành một người lính, một nhà văn.