18 bộ phim truyện Điện ảnh tham dự tranh giải Cánh Diều Vàng năm nay có thể
nói đã đánh dấu một sự khởi sắc hết sức đáng phấn khởi của một nền điện ảnh dân tộc trên con đường chinh
phục số đông khán giả
VỀ MẤY BỘ PHIM THAM DỰ CÁNH DIỀU VÀNG 2024
MAI AN NGUYỄN ANH TUẤN
PHIM “MAI” SẼ HAY HƠN NẾU BỚT ỒN ÀO VÀ BỚT LỜI
Phim
“Mai” chiếu từ dịp Tết, tôi được nghe đủ lời khen chê - khen nhiều hơn chê, và được cô con gái sinh
viên năm thứ hai sau khi rủ bạn xem về bảo: “Phim xúc động ạ. Nhưng ồn ào
quá, khiến con đau đầu”.
Nhưng
phải tới lúc phim này (cùng 17 phim truyện điện ảnh) được chiếu phục vụ cho Ban
Giám khảo Cánh Diều Vàng 2024 và Ban lý luận phê bình của Hội Điện ảnh VN, tôi
mới có dịp được xem. Quả là phim Mai lập kỷ lục phòng vé, trước hết là Trấn
Thành rất hiểu thị hiếu khán giả Việt, và khai thác bộ phim từ cuộc sống đời
thường – như mấy phim cháy rạp trước đó của anh. Phim có lời thoại hài hước,
xây dựng trên một câu chuyện gần gũi đánh trúng được vào thị hiếu số đông; đặc
biệt dàn diễn viên diễn hết sức tự nhiên là điểm cộng số một của phim.
Tôi
không đồng tình với ý kiến chỉ trích của một cây bút phê bình chuyên nghiệp về
phim Mai: “đã năm 2024 rồi, chúng ta có thể mong đợi một bộ phim Việt Nam không
có đề tài hiếp dâm, làm đĩ nữa được không? Tôi chắc chắn đời sống của người Việt
Nam rất đa dạng, phong phú, có hàng trăm hàng triệu những câu chuyện thú vị
khác, cớ sao phim nào cũng có yếu tố tình dục, hiếp dâm?” Thật ra, chuyện “hiếp
dâm, làm đĩ” xuất hiện trên màn ảnh lớn thế giới Đông - Tây từ một trăm năm
nay, và sẽ còn xuất hiện một khi cuộc sống loài người vẫn còn cái xấu cái ác tồn
tại. Như Tình yêu nam nữ vậy! Vấn đề là những chuyện đó được thể hiện như thế
nào?
Theo
chủ quan tôi, phim Mai sẽ hay hơn, có sức chinh phục khán giả hơn, nếu như bộ
phim bớt đi sự lên gân ồn ào, bớt lời cãi vã thuyết giảng dài dòng, bớt “kịch
hóa”… Truyền hình và sân khấu là những thể loại riêng, có những tiêu chí nghệ
thuật riêng - song ở phim điện ảnh, truyền hình hóa và sân khấu hóa chính là thủ
tiêu điện ảnh, mà phim Mai thì đầy rẫy những trường đoạn phim mang chất truyền
hình - mà là loại truyền hình rẻ tiền! Và những lời thoại phim, lẽ ra trong điện
ảnh cần dành chỗ cho khoảng lặng suy ngẫm giàu cảm xúc và để hành động &
tình huống nói thay, thì trong phim Mai đã được ném ra trên màn ảnh với volume
vặn “kịch kim” dường như các nhà làm phim sợ khán giả không hiểu ý đồ sâu xa của
mình và đều bị… điếc nặng hết!
Khán giả có cảm tưởng nhà làm phim
cho diễn viên - nhân vật mình chăm bẵm uống dopin kích thích thần kinh quá liều
để sẵn sàng gào thét, đấm đá, quằn quại mỗi khi có tình huống kịch tính bên
ngoài hoặc nội tâm… Lúc Mai tuyệt vọng nhất tìm đến người yêu đang ngồi cô đơn,
người xem thèm được sống trong vài phút im lặng giữa hai người, thì lại bị “tra
tấn” bởi những lời than thở thừa thãi ai cũng biết, có nhạc phụ họa!
Kèm theo đó là thỉnh thoảng có tiếng động phim giật gân như để đánh thức
khán giả buồn ngủ, kiểu “Bụp” - “Chíu” trong các truyện tranh hành động, góp phần
tạo nên những tạp âm khủng khiếp chỉ có tác dụng phá hoại tính thẩm mỹ cần có của
bộ phim! Còn về âm nhạc trong phim này thì nhiều người thấy thất vọng quá chừng,
bởi nhạc sĩ làm nhạc phim và đạo diễn dường bất chấp cảm thụ của khán giả, biến
nhạc phim thành thứ hỗ trợ cho tiếng ồn của phim bằng nhạc giao hưởng, đàn dây,
bài hát một cách hết sức tùy tiện, nhiều khi đã phá hỏng nội dung thoại!
Việc biến âm nhạc thành cái nền ồn ào nhằm “đưa đẩy” lời thoại phim một
cách vô lối tùy tiện, xin thưa đó cũng là bệnh chung của hầu hết các phim Việt
hiện nay - kể cả những phim khá nhất đã/ sẽ đoạt giải cao ở các LHP trong nước!
Gửi ra các LHF quốc tế, xin
lỗi, khán giả họ chạy mất dép!
Về đường dây truyện phim tải nội dung & ý đồ tư tưởng của phim Mai càng về sau càng đuối, nhất
là đoạn hồi ức - hồi tưởng (flashback) có vai trò hết sức quan trọng cho khán giả biết Mai đã bị xâm hại tình dục, rồi có thai ngoài ý muốn, dẫn tới cô muốn tìm tới cái chết - nhưng bộ phim đã kể lại một cách
sơ sài hời hợt chỉ bằng vài ba cảnh phim rời rạc, khiến không ít người xem nghĩ
rằng: đó là cảnh phim về cuộc đời nào khác chứ không phải là của Mai!
Bộ phim đã pha trộn quá nhiều thể loại, có đủ hết náo kịch, hài kịch, chính kịch,
phim tâm lý tình cảm, phim kinh dị, phim hành động, phim ca nhạc - vi phạm
vào một quy luật sáng tạo điện ảnh mà một nhà lý luận biên kịch Mỹ đã cảnh báo:
Ngay ở vài phút vào phim tác giả phải xác định cho khán giả biết là họ đang được
xem loại phim gì, đừng có lập lờ đánh lận con đen! Ở đây nhà làm phim Mai
đã không những “lập lờ đánh lận con đen” mà còn tham lam khiến khán giả bội thực!
Mấy
điều có thể gọi là nhược điểm nói trên của “phim Trấn Thành” thực ra rất dễ khắc
phục để những bộ phim sau “Mai” sẽ tiếp tục chinh phục khán giả nhiều hơn nữa!
HAI BỘ PHIM MANG NẶNG VỊ MUỐI CỦA ĐỜI
18 bộ phim truyện Điện ảnh tham dự tranh giải Cánh Diều Vàng năm nay có thể
nói đã đánh dấu một sự khởi sắc hết sức đáng phấn khởi của một nền điện ảnh dân tộc trên con đường chinh
phục số đông khán giả; và có hai bộ phim gây ấn tượng mạnh nhất đối với tôi - một
khán giả đang làm nghề - hai bộ phim mang “vị muối” đích thực của đời có khả năng chạm vào đáy
sâu cảm xúc của hàng triệu khán giả, đó là “Hai Muối” và “Sáng đèn”.
Những ai từng làm cha làm mẹ và trải qua những đận mưu sinh gian khó để
nuôi dạy và bảo vệ con mình đều có thể tìm thấy trong phim “Hai Muối” sự đồng cảm
sâu sắc, cùng sự động viên chân thành cảm động… Có điều, sự đồng cảm và động
viên đó đã được gửi gắm qua những số phận gần gũi mà các nghệ sĩ điện ảnh đã
tái tạo một cách hết sức chân thực, sinh động trên màn ảnh, chân thực và sinh động
tới độ có nhiều cảnh phim khiến người xem như hòa nhập hồn mình vào buồn vui của
nhân vật, phải khóc cùng nhân vật…
Hai nhân vật chính: người cha làm muối (diễn viên Quyền Linh) và cô con gái
tên Muối (diễn viên Huỳnh Bảo
Ngọc) chắc chắn sẽ có sức sống
lâu dài trong lòng khán giả Việt, chỉ bởi cái nguyên cớ sâu xa và làm nên cội
nguồn của nghệ thuật, là các nghệ sĩ điện ảnh - từ tác giả kịch bản, đạo diễn,
quay phim, diễn viên, họa sĩ thiết kế, âm thanh… đến ánh sáng, hóa trang… đã lặn
rất sâu vào đời sống cần lao để chắt lọc ra cái “Vị mặn” dính mồ hôi, và dính
máu nữa, từ đó nêu ra những vấn đề thiết yếu nhất của hôm nay trên các lĩnh vực
quan hệ gia đình, hàng xóm láng giềng, tình yêu, bạn đồng học, chuyện hướng
nghiệp…
Phim “Hai Muối” chưa ra rạp chính thức nhưng
đã nhận được biết bao sự ngợi khen trong giới chuyên môn - đặc biệt là của Tiến sĩ nghệ thuật học, Chủ tịch Hội
Điện ảnh Việt Nam Đỗ Lệnh Hùng Tú, vì vậy tôi không dám lạm bàn thêm, để xin chuyển sang bộ
phim cuối cùng của đợt chiếu thẩm định này là “Sáng đèn”…
Xem “Sáng đèn”, ngoài những ấn tượng chung cho cả hai phim tôi đã nói ở
trên, thì có điều đặc biệt này nữa: Cấu trúc truyện phim khá phức tạp song được
xử lý cực kỳ "ngọt"! Phim về đề tài nghệ thuật cải lương, xoay quanh
câu chuyện vui buồn của một gánh hát miền Tây Nam bộ, nhưng chất “cải lương”
như một yếu tố câu khách lại rất ít mà để dành “lãnh địa“ cho nghệ thuật điện ảnh
- trong một tác phẩm điện ảnh đúng nghĩa!
Câu hát vọng cổ của người cha vốn chuyên đệm đàn đã hát thay cho con trai ở
buổi phục vụ đám cưới khiến người xem rung động không phải bởi bản thân câu
hát, mà là bởi cái cảnh ngộ của hai cha con - người của đoàn Hát Viễn Phương đã
tan rã; tình tiết nghệ thuật này nằm trong hệ thống tình tiết kể lại những
thăng trầm bi hài của gánh hát, đan xen với số phận của các kép chính kép phụ
và “ông bầu” cùng quan hệ cha và con, sư phụ và học trò nghề của họ được miêu tả
một cách duyên dáng, tự nhiên, có chiều dày nội tâm và sự phát triển tâm lý
không hề có chút gượng ép!
Tôi thiển nghĩ: Sự phức tạp cần tiết của hệ thống tình tiết phim dẫn tới bề
dày của tính cách nhân vật, chính là điểm yếu kém nhất của phim truyện nước
nhà, là cái gốc của sự non kém, sơ lược hóa về kịch bản lâu nay! Nhưng phim “Sáng
đèn” đã tránh được điều này. Và có thể nói đây là phim đề tài âm nhạc cải lương
- đàn ca Tài tử Nam Bộ có tầm quy mô nhất trước nay về cấu trúc truyện phim, về
xây dựng hệ thống nhân vật và gợi ra được một cách thấm thía những vấn đề khá
nóng bỏng về sự tồn tại cũng như sự phát triển nghệ thuật quần chúng rất thân
thiết này tại chính quê hương của nó vào thời kinh tế thị trường và bị các nghệ
thuật hiện đại lấn át!
Một người làm nghề tưởng chừng đã “chai sạn” với đủ loại phim nội - ngoại
như tôi đã phải chảy nước mắt trước nỗi đau lòng tuyệt vọng của ông bầu gánh
hát khi phải tuyên bố “rã gánh” với các nghệ sĩ thân yêu của mình; đã phải se
lòng không kém nhân vật kép chính Lâm buộc rời cô gái anh yêu để chấp nhận cưới
người đàn bà giàu nhưng anh không hề yêu để cứu tính mạng người mình yêu và cứu
gánh hát…
Có đến hai motif "bán thân" để cứu gánh hát - một kép một đào,
song không hề tạo cảm giác lặp lại, nhàm chán, mà mỗi lần một tình huống bất khả
kháng, được đặt ra và giải quyết hợp lý một cách tàn nhẫn! Bởi các sự kiện phim
diễn ra dù ngẫu nhiên hay tất yếu, bởi các tâm trạng nhân vật trong sự kiện… tất
cả đã được nhà làm phim chắt lọc từ chính "vị muối" của Đời - đều thực
mặn mòi, cay đắng, chua xót, và hết sức chân thực theo quy luật tâm lý đời thường
ở tại vùng quê ấy, và như quy luật điện ảnh đòi hỏi!
Phim dài hơn hai giờ, có những chỗ nhẩn nha, song khán giả không hề thấy sốt
ruột và khi chữ phim hiện lên người xem vẫn cảm thấy tiếc nuối… Và trên hết, với
hệ thống cấu trúc truyện phim khá chặt chẽ hợp lý, với hệ thống nhân vật được
chăm chút kỹ lưỡng tới từng chi tiết tâm lý, các bối cảnh chân thực (và lúc cần
bối cảnh quy mô hoành tráng cũng có!), phim “Sáng đèn” đã dựng lên trước người
xem những hình tượng thật hấp dẫn về người nghệ nhân cải lương - đàn ca tài tử
Nam Bộ yêu nghề say đắm, tính cách kiên nghị song giàu lòng nhân hậu, có khả
năng truyền lại không những tình yêu nghề, lòng ngưỡng vọng Tổ nghề mà còn đem
tới cho người xem khát vọng yêu thương - trân trọng - quý hóa đối với bạn nghề,
đối với bà con làng xóm, đối với quê hương đất nước…
Tôi hy vọng “Sáng đèn” & “Hai Muối” sẽ là hai phim đoạt giải cao nhất vào đầu tháng 9/2024 tại Nhà hát Đó Nha Trang - thành phố điện ảnh tương lai…