Nhà văn Han Kang 54 tuổi vừa đến Thụy Điển nhận giải
thưởng Nobel văn học năm 2024 trị giá 11 triệu krona (tương đương 26 tỷ đồng Việt
Nam). Diễn từ Nobel của nhà văn Han Kang được đọc bằng tiếng Hàn, có tên gọi “Ánh
sáng và sợi chỉ”.
Tháng 1 năm ngoái, khi dọn kho để chuyển nhà, tôi tìm thấy một hộp giày cũ. Tôi mở hộp, tìm thấy vài cuốn nhật ký thời thơ ấu. Trong đống nhật ký, có một xấp giấy mỏng, trên ghi bằng bút chì Một tập thơ. Cuốn sách mỏng này gồm năm tờ giấy A5 gấp đôi và đóng bằng kim bấm. Tôi đã thêm hai đường ngoằn ngoèo dưới tiêu đề, một đường đi lên sáu bậc về bên trái, đường kia đi xuống bảy bậc hướng sang phải. Đó có phải là một kiểu minh họa bìa? Hay chỉ đơn giản là một hình vẽ nguệch ngoạc? Mặt sau xấp giấy ghi năm 1979 và tên tôi. Bên trong có tổng cộng tám bài thơ viết bằng nét bút chì gọn gàng giống như ở bìa trước và sau. Cuối mỗi bài thơ ghi một ngày khác nhau, theo thứ tự thời gian. Những dòng chữ của tôi khi lên tám rất ngây thơ và thiếu trau chuốt, nhưng một bài thơ viết vào tháng 4 đã thu hút sự chú ý của tôi. Nó mở đầu với những câu sau:
Tình yêu ở đâu?
Nó nằm trong lồng ngực đập thình thịch của tôi.
Tình yêu là gì?
Nó là sợi chỉ vàng kết nối trái tim của chúng ta
Trong chớp mắt, tôi quay ngược về bốn mươi năm trước,
nhờ kỷ niệm về buổi chiều tôi loay hoay đóng cuốn sổ thơ. Cây bút chì ngắn của
tôi đậy bằng nắp bút bi, bụi từ cục gôm, chiếc kẹp giấy lớn tôi lén lấy từ
phòng của cha. Tôi nhớ là sau khi biết gia đình mình sắp chuyển đến Seoul, tôi
có động lực thu thập những bài thơ viết rải rác trên những mẩu giấy nhỏ, hoặc
bên lề sổ tay, vở bài tập và hoặc giữa các đoạn nhật ký, gom chúng lại thành một
quyển duy nhất. Tôi cũng hồi tưởng lại cảm giác không muốn cho ai xem "tập
thơ" của mình khi nó hoàn thành.
Trước khi đặt xấp nhật ký và tập thơ nhỏ trở về chỗ cũ
và đóng nắp hộp lại, tôi đã chụp ảnh bài thơ đó bằng điện thoại. Bởi vì tôi cảm
nhận được tính liên tục giữa những từ mà tôi đã viết vào thời thơ ấu với con
người tôi hiện tại. Trong lồng ngực tôi, trong trái tim đập thình thịch của
tôi. Giữa trái tim của chúng ta. Sợi chỉ vàng nối kết - một sợi chỉ phát sáng.
14 năm sau, với việc xuất bản bài thơ và truyện ngắn đầu
tiên, tôi trở thành nhà văn. Sau năm năm nữa, cuốn tiểu thuyết dài đầu tiên mà
tôi viết trong ba năm được phát hành. Từ đó đến nay, quá trình làm thơ, viết
truyện ngắn luôn cuốn hút tôi, nhưng viết tiểu thuyết luôn có hấp lực đặc biệt.
Mỗi cuốn tiểu thuyết dài tiêu tốn của tôi từ một đến bảy năm để hoàn thành,
chúng khiến tôi đánh đổi đáng kể cuộc sống cá nhân của mình. Đây cũng chính là
điều thu hút tôi vào công việc này. Suy ngẫm về những câu hỏi mình cho là cần
thiết và cấp bách, tôi đắm chìm sâu sắc đến nỗi chấp nhận sự đánh đổi.
Mỗi khi sáng tác tiểu thuyết, tôi chịu đựng những câu
hỏi, tôi sống trong chúng. Lúc đi đến cùng những câu hỏi này không đồng nghĩa với
đã tìm ra câu trả lời, mà là lúc tôi chạm đến điểm cuối của quá trình viết. Lúc
ấy, tôi không còn là tôi khi bắt đầu, và từ trạng thái đã thay đổi đó, tôi tái
khởi đầu. Những câu hỏi tiếp theo xuất hiện, như trong một chuỗi mắt xích, hoặc
như những quân cờ domino, chồng chéo và nối tiếp nhau, thúc đẩy tôi tiếp tục viết
điều gì mới.
Khi viết cuốn tiểu thuyết thứ ba Người ăn chay, từ
năm 2003 đến 2005, tôi đã đối mặt với những câu hỏi đau đớn: Một người có thể
hoàn toàn ngây thơ không? Chúng ta có thể từ chối bạo lực đến mức nào? Điều gì
sẽ xảy ra với cá nhân từ chối thuộc về giống loài gọi là con người?
Lựa chọn không ăn thịt để từ chối bạo lực, và cuối
cùng từ chối mọi đồ ăn, thức uống, ngoại trừ nước, với niềm tin rằng mình đã biến
thành cây, Yeong-hye, nhân vật chính trong Người ăn chay, thấy mình ở
trong tình huống mỉa mai: Càng muốn tự cứu mình thì càng nhanh chóng hướng đến
cái chết. Yeong-hye và chị gái In-hye của cô, thực tế cả hai đều là nhân vật
chính, gào thét vô thanh trong những cơn ác mộng và sự đổ vỡ, nhưng cuối cùng họ
vẫn bên nhau. Tôi để cảnh cuối cùng diễn ra trong chiếc xe cứu thương, với hy vọng
Yeong-hye vẫn còn sống trong thế giới của câu chuyện. Chiếc xe lao nhanh xuống
con đường núi dưới những tán lá xanh rực rỡ, trong khi người chị đăm đăm nhìn
ra ngoài cửa sổ. Có lẽ cô đang chờ đợi một phản ứng, hoặc cô đang phản kháng.
Toàn bộ tiểu thuyết nằm trong trạng thái nghi vấn. Nhìn chằm chằm và thách thức.
Chờ đợi một câu trả lời.
Mực và Máu (Ink and Blood), cuốn tiểu thuyết
sau Người ăn chay, tiếp tục những câu hỏi này. Từ chối cuộc sống và thế giới
này để từ chối bạo lực là sự bất khả thi. Rốt cuộc, chúng ta không thể biến
thành những cái cây. Vậy chúng ta tiếp tục bằng cách nào? Trong cuốn tiểu thuyết
thể loại kỳ bí này, những câu văn in thường và in nghiêng xô đẩy, xung đột
nhau, khi nhân vật chính - người lâu nay vật lộn với bóng đen Thần Chết - mạo
hiểm mạng sống của mình để chứng minh rằng cái chết đột ngột của bạn cô không
thể là tự tử. Khi tôi viết cảnh kết thúc, mô tả cô ấy lê lết trên sàn để bò ra
khỏi cái chết và sự hủy diệt, tôi đã tự hỏi những câu này: Lẽ nào chúng ta
không được sống sót đến cùng sao? Lẽ nào đời ta không là minh chứng cho chân lý
hay sao?
Với cuốn tiểu thuyết thứ năm, Những bài học Hy Lạp (Greek
Lessons), tôi thậm chí còn đẩy xa hơn nữa. Nếu chúng ta phải sống trong thế giới
này, những khoảnh khắc nào làm cho điều đó khả thi? Một phụ nữ mất tiếng nói và
một người đàn ông mất dần thị giác đang đi trong lặng lẽ và bóng tối khi những
ngả đường đơn độc của họ giao nhau. Tôi tập trung miêu tả những khoảnh khắc xúc
giác trong câu chuyện này. Cuốn tiểu thuyết diễn tiến với tốc độ chậm của riêng
nó, xuyên qua tĩnh lặng và bóng tối, cho đến khi bàn tay của người phụ nữ với tới
và viết vài từ trên lòng bàn tay của người đàn ông. Trong giây phút rực sáng
thành vĩnh hằng, hai nhân vật bộc lộ những khía cạnh ôn hòa của chính họ. Câu hỏi
tôi muốn đặt ra ở đây là: Phải chăng bằng cách quan tâm đến những khía cạnh dịu
dàng nhất của nhân loại, bằng cách vuốt ve sự ấm áp không thể chối cãi tồn tại ở
đó, rốt cuộc chúng ta có thể tiếp tục sống trong thế giới hữu hạn và đầy bạo lực
này?
Khi chạm đến tận cùng câu hỏi này, tôi bắt đầu nghĩ về
cuốn sách tiếp theo. Đó là vào mùa xuân năm 2012, không lâu sau khi Những
bài học tiếng Hy Lạp xuất bản. Tôi tự nhủ sẽ viết một cuốn tiểu thuyết tiến
thêm một bước nữa về phía ánh sáng và sự ấm áp. Ngập tràn tác phẩm này là cảm
giác sáng choang, trong suốt. Tôi nhanh chóng tìm ra tên sách và viết được hai
mươi trang bản thảo đầu tiên, rồi buộc phải dừng lại. Tôi nhận ra rằng có điều
gì đó bên trong ngăn cản tôi viết cuốn tiểu thuyết này.
Cho đến lúc đó, tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc viết về
Gwanju
Tôi mới chín tuổi khi gia đình rời Gwangju vào tháng
1/1980, khoảng bốn tháng trước khi các cuộc thảm sát bắt đầu. Khi tôi tình cờ
nhìn thấy gáy sách lộn ngược của Sách ảnh Gwangju trên kệ vài năm
sau, và xem qua lúc không có người lớn nào xung quanh, tôi đã mười hai tuổi. Cuốn
sách chứa những bức ảnh của thường dân, sinh viên Gwangju bị giết bằng gậy, lưỡi
lê và súng khi chống lại lực lượng quân sự vừa thực hiện đảo chính. Được những
người sống sót và gia đình người chết xuất bản, phân phối bí mật, cuốn sách làm
chứng cho sự thật vào thời điểm mà sự thật còn bị truyền thông bóp méo, xuyên tạc.
Là một đứa trẻ, tôi chưa hiểu hết ý nghĩa chính trị của những hình ảnh đó,
nhưng những khuôn mặt dập nát trong sách đã in hằn trong tâm trí tôi câu hỏi cơ
bản về con người: Đây có phải là hành động của một con người đối với con người
hay không? Và sau đó, nhìn thấy một bức ảnh chụp hàng người vô tận chờ hiến máu
bên ngoài bệnh viện đại học, tôi lại tự hỏi: Đây có phải là hành động của một
con người đối với con người hay không? Hai câu hỏi này trông thì giống nhau,
nhưng chúng xung khắc và dường như không thể hòa giải. Sự thiếu tương thích của
chúng là một nút thắt mà tôi không thể tháo gỡ.
Vì vậy, vào một ngày xuân năm 2012, khi thử viết một
cuốn tiểu thuyết tươi sáng, ngợi ca cuộc sống, tôi một lần nữa phải đối mặt với
vấn đề chưa được giải quyết này. Tôi đã mất cảm giác tin tưởng sâu sắc vào con
người từ lâu. Vậy làm sao tôi có thể vỗ về thế giới? Tôi nhận ra rằng mình phải
đối mặt với câu đố không lời đáp này nếu muốn tiến về phía trước. Tôi hiểu rằng
viết là cách duy nhất để vượt qua nó.
Tôi dùng phần lớn thời gian của năm đó để phác thảo tiểu
thuyết, hình dung sự kiện tháng 5/1980 ở Gwangju sẽ tạo thành một lớp nghĩa
trong cuốn sách. Vào tháng 12, tôi đến thăm nghĩa trang ở Mangwol-dong. Lúc đó
đã quá trưa, một ngày sau trận tuyết lớn. Sau đó, khi ánh sáng mờ dần, tôi bước
ra khỏi nghĩa trang băng giá với bàn tay đặt lên ngực, cạnh trái tim. Tôi tự nhủ
rằng cuốn tiểu thuyết tiếp theo này sẽ nhìn trực diện vào Gwangju, thay vì dành
cho nó một lớp nghĩa duy nhất. Tìm được một cuốn sách thu thập hơn 900 lời chứng,
tôi dành chín giờ mỗi ngày trong suốt một tháng để đọc từng câu chuyện trong
đó. Rồi tôi đọc ngấu nghiến không chỉ về Gwangju mà còn về các trường hợp bạo lực
nhà nước khác. Nhìn xa hơn và quay ngược về quá khứ, tôi đọc về những cuộc thảm
sát mà con người liên tục gây ra khắp thế giới trong suốt chiều dài lịch sử.
Trong quá trình nghiên cứu chuẩn bị cho cuốn tiểu thuyết,
có hai câu hỏi thường xuyên hiện lên trong tâm trí tôi. Ở độ tuổi 20, tôi đã viết
những dòng này lên trang đầu tiên của mỗi cuốn nhật ký mới:
Hiện tại có thể giúp quá khứ không?
Người sống có thể cứu người chết không?
Càng đọc, tôi càng nhận ra rằng đây là những câu hỏi
không thể trả lời. Thông qua sự chạm trán dai dẳng với những khía cạnh đen tối
nhất của nhân loại, tôi cảm thấy những tàn dư của niềm tin vào con người - vốn
đã gãy đổ từ lâu trong tôi - nay vỡ vụn hoàn toàn. Tôi gần như từ bỏ cuốn tiểu
thuyết. Rồi tôi đọc được những trang nhật ký của một giáo viên trẻ dạy trường
buổi tối. Park Yong-jun, một thanh niên nhút nhát, trầm tính, đã tham gia vào
"cộng đồng tuyệt đối" của những công dân tự trị hình thành ở Gwangju
trong 10 ngày nổi dậy vào tháng 5/1980. Anh ấy bị bắn chết tại tòa nhà Hiệp hội
nữ thanh niên Cơ Đốc (Young Women's Christian Association) gần trụ sở hành
chính tỉnh. Anh đã chọn ở lại, dù biết rằng binh lính sẽ tấn công lần nữa vào
sáng sớm. Trong đêm cuối cùng đó, anh viết vào nhật ký: "Chúa ơi, tại sao
lương tâm con lại đau khổ và cắn rứt như vậy? Con muốn được sống".
Khi đọc những câu này, tôi thấy ngay đường đi của cuốn
tiểu thuyết, sáng rõ như ban ngày. Và hai câu hỏi của tôi phải đảo ngược.
Quá khứ có thể giúp hiện tại không?
Người chết có thể cứu người sống không?
Về sau, khi đang viết Bản chất của người (Human
Acts), vào những khoảnh khắc nhất định, tôi nhận thấy rằng quá khứ thực sự đang
giúp hiện tại, và người chết đang cứu người sống. Thỉnh thoảng tôi lại ghé thăm
nghĩa trang ấy, chẳng hiểu sao lúc nào trời cũng trong xanh chứ không còn lạnh
giá. Tôi sẽ nhắm mắt lại, để những tia nắng màu cam tràn vào mí mắt tôi. Tôi cảm
thấy đó là ánh sáng của sự sống. Tôi cảm thấy ánh sáng và không khí bao bọc tôi
trong ấm áp khôn tả.
Những câu hỏi còn đọng lại lâu trong tôi sau khi tôi
nhìn thấy cuốn sách ảnh đó là: Con người sao lại bạo lực đến vậy? Và tại sao đồng
thời, con người có thể chống lại bạo lực dữ dội đến vậy? Thuộc về giống loài
mang tên con người có nghĩa là gì? Để băng qua "con đường không - thể -
qua" nối khoảng không giữa hai vách đứng của nỗi kinh hoàng và phẩm giá
con người, tôi cần sự trợ giúp của người chết. Cũng như trong cuốn tiểu thuyết
này, Bản chất của người, cậu bé Dong-ho kéo tay mẹ để thúc giục bà hướng về
mặt trời.
Tất nhiên, tôi không thể đảo ngược những gì đã xảy ra
với người chết, thân nhân họ hay người sống sót. Những gì tôi có thể làm là
truyền cho họ cảm giác, cảm xúc, và sự sống đang đập trong cơ thể tôi. Mong muốn
thắp nến ở đoạn đầu và cuối cuốn tiểu thuyết, tôi đã đặt cảnh thứ nhất trong
nhà thi đấu địa phương, nơi quàn những thi thể. Ở đó, chúng ta chứng kiến cậu
bé mười lăm tuổi Dong-ho phủ những tấm vải trắng lên các thi thể và thắp nến. Cậu
nhìn đăm đăm vào trái tim xanh nhạt của từng ánh nến.
Tên tiếng Hàn của tiểu thuyết này là Sonyeon-i
onda. Từ cuối cùng "onda" là thì hiện tại của động từ
"oda", có nghĩa là "đến". Ngay khoảnh khắc thiếu niên
sonyeon được gọi bằng ngôi thứ hai là "em", dù thân mật hay không, cậu
ấy lập tức tỉnh dậy trong ánh sáng mờ ảo và bước về phía hiện tại.. Những
bước chân của cậu ấy là của một linh hồn. Cậu ấy càng lúc càng đến gần và biến
thành cái bây giờ. Khi sự tàn ác và phẩm giá của con người tồn tại song song
trong đối cực được gọi là Gwangju, thì cái tên đó không còn là danh từ riêng chỉ
một thành phố duy nhất, mà trở thành một danh từ chung. Đó là điều tôi học được
khi viết cuốn sách này. Sự kiện xảy đến với chúng ta - hết lần này đến lần khác
xuyên qua thời gian, không gian - và luôn ở thì hiện tại. Thậm chí là bây giờ.
***
Khi cuốn sách hoàn thành và xuất bản vào mùa xuân năm
2014, nỗi đau mà nó gây ra nơi độc giả khiến tôi ngạc nhiên. Tôi phải dành thời
gian suy nghĩ xem nỗi đau tôi cảm thấy trong quá trình sáng tác và những khổ sầu
độc giả bày tỏ với tôi có liên quan với nhau thế nào. Có gì đằng sau nỗi thống
khổ ấy? Phải chăng do chúng ta muốn đặt niềm tin vào nhân loại, và khi niềm tin
ấy bị lung lay, ta cảm thấy như chính bản thân đang bị phá hủy? Phải chăng
chúng ta muốn yêu nhân loại, và đây là nỗi đau mà chúng ta cảm thấy khi tình
yêu bị đập tan tành? Phải chăng tình yêu sinh ra nỗi đau, và nỗi đau là bằng chứng
của tình yêu?
Tháng 6 cùng năm, tôi mơ thấy mình đang đi qua một
cánh đồng bao la trong tuyết rơi lác đác. Hàng nghìn hàng vạn gốc cây đen rải
rác khắp cánh đồng, sau mỗi gốc cây là một gò mả. Có lúc đang bước xuống nước,
tôi nhìn thấy biển đang tràn vào từ rìa cánh đồng, mà trước đó tôi nhầm là đường
chân trời. Tại sao lại có mộ ở một nơi như thế này? Tôi tự hỏi. Chẳng phải tất
cả xương cốt trong những gò mả thấp gần biển đã bị cuốn trôi rồi sao? Ít nhất
thì tôi cũng nên di dời xương cốt lên các gò cao hơn ngay bây giờ, trước khi
quá muộn? Nhưng làm cách nào? Tôi thậm chí không có cái xẻng nào. Nước đã lên đến
mắt cá chân tôi. Tôi tỉnh dậy, nhìn ra cửa sổ thấy vẫn còn tối, trực giác cho
tôi biết rằng giấc mơ này đang nói với tôi điều gì đó quan trọng. Sau khi ghi lại
giấc mơ, tôi nghĩ rằng đây có thể là khởi đầu cho cuốn tiểu thuyết tiếp theo của
mình.
Tuy nhiên, tôi chưa có ý tưởng rõ ràng về hướng đi.
Tôi bắt tay vào cuốn sách mới, loại bỏ dần những cách mở đầu của một số câu
chuyện tiềm năng mà tôi tưởng tượng sau giấc mơ. Cuối cùng, vào tháng 12/2017,
tôi thuê phòng trên đảo Jeju và dành khoảng hai năm tiếp theo đi về giữa Jeju
và Seoul. Dạo bước trong rừng, dọc theo bờ biển, trên con đường làng, cảm nhận
thời tiết cực đoan của Jeju vào mỗi khoảnh khắc - gió, ánh sáng, tuyết và mưa -
tôi dần hình dung rõ nét phác thảo của cuốn tiểu thuyết. Tương tự khi viết Bản
chất của người, lần này tôi cũng đọc lời chứng của người sống sót sau những cuộc
thảm sát, nghiền ngẫm tài liệu, rồi sau đó, với cách tiếp cận kiềm chế nhất có
thể mà không quay lưng lại với những chi tiết tàn nhẫn gần như không thể diễn tả
bằng lời, tôi đã viết nên Không lời từ biệt (We Do Not Part). Cuốn
sách được xuất bản gần bảy năm sau giấc mơ về những gốc cây đen và nước biển
tràn bờ.
Trong cuốn sổ tay tôi dùng trong quá trình sáng tác ấy,
tôi đã ghi chú thế này:
Cuộc sống tìm cách sống. Cuộc sống ấm áp.
Chết là trở nên lạnh lẽo. Có tuyết phủ lên mặt thay vì
tan chảy.
Giết là làm lạnh.
Con người trong lịch sử và con người trong vũ trụ.
Gió và các dòng hải lưu. Dòng tuần hoàn của nước và
không khí kết nối toàn thế giới. Chúng ta được kết nối. Tôi cầu nguyện để chúng
ta được kết nối.
Tiểu thuyết này chia thành ba phần. Nếu phần đầu là
hành trình không gian, theo chân người kể chuyện Kyungha từ Seoul đến nhà của
người bạn Inseon ở vùng cao nguyên Jeju, xuyên qua tuyết rơi dày đặc để tìm đến
chỗ chú chim nhỏ mà cô được giao nhiệm vụ cứu sống, thì phần thứ hai là hành
trình thời gian dẫn Kyungha và Inseon đến một trong những đêm đen tối nhất của
nhân loại - vào mùa đông năm 1948, khi thường dân trên đảo Jeju bị thảm sát -
và lặn sâu xuống đáy đại dương. Trong phần thứ ba, cũng là phần cuối, hai người
cùng thắp lên ngọn nến dưới đáy biển.
Mặc dù diễn tiến tiểu thuyết xoay quanh hai người bạn,
tương tự cách họ thay phiên nhau giữ ngọn nến, nhân vật chính thực sự, đồng thời
là người kết nối Kyungha và Inseon, là Jeongsim - mẹ của Inseon. Bà sống sót
sau chuỗi thảm sát trên đảo Jeju, đã chiến đấu để giành lại dù chỉ một mảnh
xương của người thân yêu, để bà có thể làm một đám tang tử tế. Bà, người không
chịu ngừng than khóc. Bà chịu đựng nỗi đau và đứng lên chống lại sự lãng quên.
Bà, người không nói lời từ biệt. Khi viết về cuộc đời bà, người bao năm tháng
luôn sục sôi, đẫm đầy cùng một nỗi đau và tình yêu, tôi nghĩ mình đặt ra những
câu hỏi sau: Chúng ta có thể yêu đến mức nào? Đâu là giới hạn của chúng ta?
Chúng ta phải yêu đến mức nào để duy trì được nhân tính đến tận cùng?
Ba năm sau khi phát hành ấn bản tiếng Hàn của Không
lời từ biệt, tôi vẫn chưa hoàn thành cuốn tiểu thuyết tiếp theo của mình. Còn
cuốn sách tôi hình dung sẽ theo sau nó thì chờ đợi tôi mòn mỏi từ lâu. Đó là cuốn
tiểu thuyết liên kết với Sách Trắng (The White Book), tác phẩm tôi viết
ra từ mong muốn cho người chị ruột - đã qua đời hai giờ sau khi chào đời - mượn
tạm cuộc sống của mình trong giây lát, và cũng để săm soi vào những thành tố
làm nên chúng ta mà không gì phá hủy nổi, dù trời long đất lở. Như mọi khi, thật
khó dự đoán khi nào sẽ hoàn thành tác phẩm, nhưng tôi vẫn miệt mài viết, dù chậm
rãi. Tôi sẽ vượt qua những cuốn sách đã viết để đi tiếp. Cho đến khi tôi ngoái
lại nhìn và thấy chúng không còn trong tầm mắt mình nữa. Xa nhất có thể mà đời
tôi cho phép.
Khi rời xa tôi, các tác phẩm tiếp tục đời sống độc lập
và đi theo số phận riêng của chúng. Cũng như hai chị em ở cạnh nhau mãi mãi
trong chiếc xe cứu thương, khi ngọn lửa xanh rực cháy bên ngoài cửa kính. Cũng
như người phụ nữ sắp lấy lại giọng nói, dùng ngón tay mình viết vào lòng bàn
tay của người đàn ông - trong tĩnh lặng, trong bóng tối. Cũng như chị ruột tôi,
đã qua đời chỉ sau hai giờ đến với thế giới này, và người mẹ trẻ măng của tôi
ôm con van cầu: "Đừng chết, xin đừng chết" cho đến phút cuối cùng. Những
linh hồn đó sẽ đi xa đến đâu - những linh hồn tụ lại thành vầng sáng màu cam rực
rỡ sau mí mắt nhắm của tôi, bao bọc tôi trong ánh sáng ấm áp khôn tả? Những ngọn
nến sẽ rọi xa đến đâu - những ngọn nến được thắp lên tại hiện trường mỗi vụ giết
chóc, trong thời gian và không gian bị tàn phá bởi bạo lực không thể tưởng tượng
được, ngọn nến trên tay những con người thề không bao giờ nói lời từ biệt? Phải
chăng chúng sẽ lướt đi từ sợi bấc này sang sợi bấc khác, từ trái tim này sang
trái tim kia, trên một sợi chỉ vàng?
Trong cuốn sổ nhỏ tôi tìm thấy ở hộp giày cũ vào tháng
1 năm ngoái, tôi của quá khứ, viết vào tháng 4/1979, đã tự hỏi mình:
Tình yêu ở đâu?
Tình yêu là gì?
Còn đến mùa thu năm 2021, khi Không lời từ biệt xuất
bản, tôi xem hai vấn đề sau đây là cốt lõi:
Tại sao thế giới đầy bạo lực và đớn đau?
Mà vẫn có thể đẹp tươi đến vậy?
Suốt thời gian dài, tôi tin rằng sự căng thẳng và đấu
tranh bên trong những câu này là lực đẩy đằng sau sự nghiệp viết lách của mình.
Từ cuốn tiểu thuyết đầu tiên đến cuốn mới nhất, những câu hỏi neo giữ trong tâm
trí tiếp tục thay đổi và phát triển, nhưng chỉ có hai câu này là bất biến.
Nhưng hai, ba năm trước, tôi bắt đầu nghi ngờ. Có thật sự là tôi chỉ bắt đầu tự
hỏi mình về tình yêu - về nỗi đau kết nối chúng ta - sau khi Bản chất của
người ra mắt bản tiếng Hàn vào mùa xuân năm 2014 không? Từ cuốn tiểu thuyết
đầu tiên đến cuốn mới nhất, chẳng phải lớp sâu nhất của các truy vấn đều luôn
hướng về tình yêu hay sao? Phải chăng tình yêu thực sự là âm điệu cổ xưa và căn
bản nhất trong cuộc đời tôi?
Tình yêu nằm ở một nơi riêng tư được gọi là "trái
tim của tôi", đứa trẻ đã viết vào tháng 4/1979. (Nó nằm trong lồng ngực đập
thình thịch của tôi). Và về tình yêu là gì, đây là câu trả lời của cô
bé. (Nó là sợi chỉ vàng kết nối trái tim của chúng ta).
Tôi huy động toàn bộ cơ thể mình khi viết. Tôi sử dụng tất cả giác quan để nhìn, nghe, ngửi, nếm, trải nghiệm sự dịu dàng, ấm áp, lạnh lẽo, đớn đau; để nhận thấy tim mình đập nhanh và cơ thể cần thức ăn nước uống; để đi và chạy; để cảm nhận gió, mưa, tuyết trên da; để nắm giữ những bàn tay. Tôi cố gắng truyền những cảm giác sống động mà tôi - một sinh vật phàm trần với dòng máu nóng chảy trong cơ thể - cảm nhận được, vào câu chữ của mình. Như thể truyền đi một luồng điện. Và khi biết luồng điện này đã được truyền đến độc giả, tôi kinh ngạc và xúc động. Trong những khoảnh khắc này, tôi lần nữa trải nghiệm sợi chỉ ngôn ngữ kết nối chúng ta, mối liên quan giữa những câu hỏi của tôi với độc giả, thông qua luồng điện sống động ấy. Tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến những ai đã kết nối với tôi qua sợi chỉ đó, cũng như những ai sẽ đến tham gia kết nối trong tương lai.
HỒNG NHUNG chuyển ngữ, theo Nobel Prize