Trong suốt mấy chục năm làm quan chức (cao cấp) văn
nghệ, có cảm giác con người nhà thơ trong Nguyễn Đình Thi như một đứa trẻ con
luôn phải rụt rè, núp tránh phía sau con người quan chức, con người nhà văn,
con người lý luận, hay cả con người nhạc sĩ.
THƠ NGUYỄN ĐÌNH THI: MỘT KHOẢNG SÁNG CUỐI CÙNG
THANH THẢO
Tôi bắt đầu đọc tập thơ cuối cùng của Nguyễn Đình Thi,
tập “Sóng reo” xuất bản năm 2001, từ bài thơ cuối cùng của tập thơ này,
bài “Đêm mưa”:
“Đêm mưa hàng cây đứng lặng
Phố vẫn lóa đèn ầm ào
Nước mưa đọng đầy mi mắt
Ngoảnh trông lại đã bạc đầu
Thoáng đời người tiếng cười khóc
Bay vào vô tận sóng reo
Anh mơ màng nhìn trên tay
Ướt đẫm mưa nhành lan tím”
Đây là những hình ảnh đã lặn vào bên trong, cả những
âm thanh dù “ầm ào” hay “sóng reo” cũng đã lặn sâu vào bên trong. Một “đêm mưa”
chìm sâu ngấm sâu vào “cõi tù mù” của người viết, để từ đó ứa ra những chiêm
nghiệm. Đó cũng là cách thế vận động của thơ Nguyễn Đình Thi: những hình ảnh hiện
thực lặn sâu vào bên trong, và từ vùng mờ nhòe của ký ức hay tâm thức, những
hình ảnh ấy lại dần hiện ra. Nó như thế mà không còn như thế.
Nguyễn Đình Thi là nhà thơ cho tới những bài thơ cuối
cùng vẫn giữ cho mình một cái nhìn “mơ màng”. Những ai đã biết Nguyễn Đình Thi
đều không hề nghĩ ông là người chuyên “thả tâm hồn treo ngược trên cành cây”,
hay ông cứ mơ mơ màng màng trong đời sống. Nhưng đời là đời mà thơ là thơ. Bởi
hơn ai hết, nhà thơ hiểu rằng mỗi khi đắm chìm vào những câu thơ là mình đang sống
một cuộc đời khác, mơ những giấc mơ khác, thậm chí chu du vào một thế giới
khác.
Thơ có khả năng tạo ra những ảo giác - hiện thực như
thế, trước hết là cho nhà thơ, sau đó có thể lan truyền tới người đọc
thơ. Anh mơ màng nhìn trên tay/ Ướt đẫm mưa nhành lan tím - đó có thể
là nhành lan thực, mà cũng có thể là một biểu tượng, là cái còn lại sau cùng của
một đời người.
Tôi lại đọc bài thơ đầu tiên trong tập “Sóng reo”,
bài “Hoa không tên”. Đây không phải là bài thơ hay trong tập này, nhưng nó
vẫn nằm trong “kênh” thơ ảo giác - hiện thực của Nguyễn Đình Thi, nó kêu gọi
người đọc tìm đến một không gian vượt ra ngoài hiện thực, trong khi vẫn ở trong
hiện thực:
“Điểm biếc trên vách đá
Một đóa hoa
Bé nhỏ cười với núi mây lộng gió
Đóa hoa không quên
Từ rất xa
Từ rất lâu
Một ngày bỗng nở
Đóa hoa không tên
Từ rất lâu
Từ rất xa”
Người ta có thể nghĩ nhà thơ đang viết về chính những
câu thơ của mình, nó như một đóa hoa không tên tình cờ nở trong lặng lẽ, nhưng
nó cũng là “đóa hoa không quên” mình từ đâu tới, không quên gốc gác của mình. Một
tập thơ viết từ những năm sắp qua tuổi thất thập, tới những năm sắp giã biệt
cõi trần, một tập thơ như thế là rất đặc biệt. Nó bộc lộ những gì mà trước đó
có thể tác giả đã nghĩ đến nhưng chưa nói đến, cả những gì nhỏ nhặt nhất, bình
dị nhất trong cuộc sống hàng ngày mà ở vài tập thơ trước tác giả đã bỏ qua.
Người ta đọc trong tập thơ này những bài thơ mang tính
tranh luận công khai và mạnh mẽ như bài thơ:
“Cách mạng
Không sao chịu nổi
Lật hết đi
Thử xoay ngược lại
Xem thành cái gì”
Và đáng buồn thay, một cuộc “lật ngược” theo kiểu
“cách cái mạng” đã không tạo nên những giá trị mới, mà chỉ là đảo ngược những
cung cách, những thuộc tính cũ cho những cặp đối lập:
Cái ác của kẻ mạnh (thành)/ Cái hèn của kẻ mạnh/ Cái
hèn của kẻ yếu (thành)/ Cái ác của kẻ yếu/ Cái tham của kẻ thừa (thành)/
Cái thèm của kẻ thừa/ Cái thèm của kẻ thiếu (thành)/ Cái tham của kẻ thiếu v.v…
Nghĩa là rốt cuộc, chả có gì thay đổi! Thế đâu phải là
cách mạng! Nhưng thế nào mới là cách mạng? “Ra khỏi bóng đêm/ Đi tới buổi
sáng”. Tác giả trả lời. Nhưng làm sao ra khỏi bóng đêm, làm sao tới được buổi
sáng, câu trả lời của tác giả khá lấp lửng: “Nhưng đó không phải chuyện một
lúc”.
Thì đó lại là “tiệm tiến thay đổi” như nhà văn lỗi lạc
Nga Mikhail Bulgakov từng ủng hộ, chứ không phải “đột biến cách mạng” như ta đã
biết. Và chính ở đó, Nguyễn Đình Thi bộc lộ mình không phải, không thể là nhà
lý luận chính trị, lý thuyết gia cách mạng, mà chỉ đơn thuần là nhà thơ. Vì nhà
thơ cảm nhận được, nhưng không thể đề ra giải pháp.
Nhà thơ biết cái kiểu “lật ngược” như thay một thế lực
thống trị này bằng một thế lực thống trị khác thì không phải là cách mạng.
Nhưng làm thế nào để có “cách mạng nhân ái” thì câu trả lời thật không dễ. Mọi
giải pháp, nếu có, của nhà thơ, chỉ là những ảo giác - hiện thực. Nó có vẻ để
an ủi chính nhà thơ và người đọc thơ hơn là để tạo ra một cuộc cách mạng hay lý
giải đường hướng của một cuộc cách mạng.
Tranh luận (dù rất nhỏ nhẹ), bộc lộ (dù rất khiêm nhường)
đã khiến tác giả phải chịu nhiều áp lực rồi, nhưng tới bài thơ “Gió bay” thì
sự tự thú đã quyết liệt (may mà tự thú thì chỉ chịu áp lực từ chính mình):
“Người tôi còn nhiều bùn tanh
Mặt tôi nhuốm xanh nhuốm đỏ
Tay tôi vướng nhiều đồ bỏ
Nhiều dây nhợ tự buộc mình
Thôi xin tha cho mọi lỗi lầm
Quên cho những dối lừa khoác lác
Tôi biết tôi đã nhiều lần ác
Và ngu dại còn nhiều lần hơn”
Trong sự chân thành tới đau đớn, người ta đọc được ở
khoảng giữa những dòng thơ là cái lắc đầu ngao ngán của một trong những nhà văn
nghệ Việt Nam thành công nhất ở thế kỷ hai mươi. Trong suốt mấy chục năm làm
quan chức (cao cấp) văn nghệ, có cảm giác con người nhà thơ trong Nguyễn Đình
Thi như một đứa trẻ con luôn phải rụt rè, núp tránh phía sau con người quan chức,
con người nhà văn, con người lý luận, hay cả con người nhạc sĩ.
Những phát ngôn thỏ thẻ của đứa trẻ ấy nhiều khi bị át
đi bởi những giọng cao hùng biện, hay những âm thanh “ầm ào” của một thời đại
khốc liệt và ít biết khoan thứ. Nhưng cuối cùng, còn lại với Nguyễn Đình Thi -
danh nhân văn hóa Việt - có khi lại chính là “đứa trẻ - thơ” ấy. Một đứa trẻ
không chỉ biết tự hào mà còn biết tự thú, không chỉ biết vinh danh mà còn biết ẩn
danh, không chỉ biết sung sướng mà còn biết đau khổ, nhất là biết đau khổ.
Cái đáng ngại với một nhà thơ nhiều khi lại là thơ của
mình. Đáng ngại nhất là khi đối diện với thơ mình ở những “phút 89” của cuộc đời.
Không thể nói khác, không cả lẩn tránh, không phải những bữa tiệc ngôn từ. Chỉ
còn những khoảng trắng, những khoảng trống, những khoảng lặng. Và chính ở đó,
hình ảnh trung thực của nhà thơ chợt đẹp lên trước thơ mình, bởi thơ mình, như
đứa trẻ cô đơn chạy trần truồng dưới cơn mưa nặng hạt.
Tôi đọc tập “Sóng reo”, mừng cho tác giả, và mừng
cho thơ. Mừng nhất là được đọc những bài thơ giản dị, thật lòng, những bài thơ
không thêu thùa, không cố sức, giống như những đóa hoa chua me đất lẫn trong cỏ.
Bài thơ “Hoa chua me đất” trong tất cả vẻ khiêm nhường tự nhiên của lời
thơ và hơi cố ý nhún mình của giọng điệu tác giả, vẫn âm thầm một tranh luận,
thậm chí một thách thức:
“Lâu, may gặp anh, chúng ta đi chơi vui trên đê
Anh đăm chiêu: “Sông ở đây nước đục ngầu”. Tôi không
dám nói lại. Sông ở đây nhiều phù sa.
Anh nghiêm nghị: “Còn quá nhiều bóng tối. Lâu nay
chúng mình quá lý tưởng”.
Vâng. Hôm qua, hôm nay, các bà mẹ chúng ta vẫn ăn đói
nuôi con.
Anh đứng lại, kéo cổ áo lên cười. “Lạnh nhỉ, buổi sáng
mùa xuân mà lạnh nhỉ”.
Tôi không dám nói, cúi đầu. Vâng, ở đây gió nhiều và đồng
rộng.
Mắt tôi bỗng hoa lên. Muôn nghìn nụ cười hồng hồng tím
tím, hoa chua me đất trong cỏ”.
Tôi cho đây là bài thơ tiêu biểu cho giọng thơ Nguyễn
Đình Thi ở những năm cuối đời ông. Hay có thể là tiêu biểu cho cách nói và cách
nghĩ của cả đời ông, khi ứng xử bên ngoài của ông luôn là “Tôi không dám nói lại”,
hay “Tôi không dám nói, cúi đầu”. Đó chỉ là bên ngoài, vì bên trong ông nghĩ
khác, lẩm nhẩm nói khác cho riêng mình nghe. Hay cho những bông hoa chua me đất
lẫn trong cỏ kia nghe. Bởi những bông hoa chua me đất tầm thường, khuất lấp ấy
mới chính là cuộc sống. Một cuộc sống luôn âm thầm sinh sôi nảy nở, bất chấp những
“đăm chiêu” hay “nghiêm nghị”, bất chấp những thờ ơ vô cảm của người đời. Những
bông hoa chua me đất ấy là Thơ. Và Nguyễn Đình Thi đã biết lặng lẽ thuộc về nó
như một đồng cảm không lời. Âm thanh trong “Sóng reo” chính là vô
thanh vậy!
Hơn một lần, tôi đã nghe chuyện trong kháng chiến chống
Pháp ở chiến khu Việt Bắc, trước những áp lực của lãnh đạo và đồng nghiệp, Nguyễn
Đình Thi đã phải tự sửa thơ không vần (hoặc ít vần) của mình thành… thơ có vần.
Thực ra, với nhà thơ tầm cỡ như Nguyễn Đình Thi, sửa thơ kiểu đó không khó, và
sửa xong thơ ấy vẫn hay, dù… có vần.
Chuyện thơ có vần hay không có vần thực ra chẳng ảnh
hưởng gì đến bài thơ, nhưng nếu bắt nhà thơ phải sửa, thì có thể, bài thơ sẽ trở
nên gượng gạo. Vì mọi sự ép buộc đều dẫn tới kết quả tiêu cực như vậy.
Còn nếu khi nhà thơ bị (hay được) cổ điển kéo về, tự
nhiên thích làm thơ có vần, và tự lạ lùng với chính mình khi bài thơ có vần ấy
mình rất ưng ý, thì khi đó, thơ có vần hay thơ không vần đều hay như nhau.
Tôi xin giới thiệu một trong ba bài thơ cuối cùng của
Nguyễn Đình Thi để bạn đọc thấy thơ có vần cứ hay. Vấn đề là ở trái tim hay tâm
hồn nhà thơ, chứ không ở những vần thơ:
MÙA THU VÀNG
Nào ai biết việc đời đưa rất lạ
Tôi đến một nơi gió núi xôn xao
Trong rừng sâu triền miên xa tất cả
Như đã về đây từ một thuở nào
Tôi đi mãi vào ngàn thông rợp bóng
Như đi sang một cõi khác nào rồi
Quên hết cả chỉ thấy trời xanh rộng
Và mùa thu im lặng ở quanh tôi
Đã có mùa xuân đời tôi không nhỉ
Và đã có không cả một mùa hè
Tôi chỉ nhớ đã đi nhiều mê mải
Năm tháng đêm ngày theo một ánh xa
Và hôm nay một mình trên đất lạ
Tôi chợt nhận ra đã tới mùa thu
Bao nhiêu chuyện tôi không còn nhớ nữa
Với cả bao nhiêu nét mặt đã mờ
Tôi nhìn lại tất cả chìm nhòa hết
Rồi sương tan dần ánh sáng lặng trong
Cho tôi nhìn về mãi xa xa tít
Bỗng nhiên tôi thấy rõ một bờ sông
Bóng áo vải thô một cô gái nhỏ
Hàng trẩu cao đường đỏ lá vàng hoe
Em tiễn anh lính đi nơi đạn lửa
Môi run run em chúc có ngày về
Em gái ơi tôi vẫn đây còn sống
Còn em bây giờ ở nơi đâu
Bao nhiêu nước đã trôi bao nhiêu sóng
Nơi dòng sông xanh in bóng núi cao
Ôi mùa thu hôm nay nghiêng cánh vàng
Đưa tôi bay về nơi nguồn tìm em.
(Đây là một trong ba bài thơ cuối cùng của Nguyễn Đình Thi, gồm “Mùa thu vàng”, “Gió bay” và “Núi xưa”, NXB Văn học, 1992).