Văn nghệ sĩ quân đội thực sự là một đội ngũ hùng hậu, khi được điểm danh qua cuốn sách ‘80 gương mặt văn nghệ sĩ quân đội’ của nhà văn Phùng Văn Khai.
Văn nghệ sĩ quân đội gắn liền với công cuộc bảo vệ và
xây dựng đất nước. Vì vậy, nhân dịp kỷ niệm 80 thành lập Quân đội nhân dân Việt
Nam, cuốn sách “80 gương mặt văn nghệ sĩ quân đội” được ấn hành, đã tạo được sự
chú ý cho công chúng trong và ngoài lực lượng vũ trang.
Nhà văn Phùng Văn Khai, tác giả cuốn sách “80 gương mặt
văn nghệ sĩ quân đội”, từng là phóng viên, biên kịch, đạo diễn quen thuộc của
truyền thông quân đội. Trưởng thành từ bình nhì đến sỹ quan cao cấp và đương chức
Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội, nhà văn Phùng Văn Khai có sự hiểu
biết sâu sắc về cuộc đời và sự nghiệp các văn nghệ sĩ quân đội.
Những điều ấy được biểu hiện rõ trong cuốn sách “80 gương
mặt văn nghệ sĩ quân đội”. Vì một điều đơn giản, để viết về chân dung thì phẩm
chất đầu tiên phải là hiểu người, hiểu đời, hiểu nghề, hiểu tác phẩm và sự chân
thành. Tấm lòng đến với tấm lòng, có con đường nào ngắn nhất, dễ đi nhất, ngoài
sự thành thực đâu! Dựng chân dung cũng là một cách đối thoại, với người được
nói tới, với độc giả, với chính mình. Không có sự trung thực về nội dung, sắc sảo
về cách tiếp cận, mới mẻ về miêu tả, tinh tế về phân tích sẽ không có đối thoại.
Càng là đối tượng đặc thù học vấn cao, trải đời, biết
nhiểu, hiểu rộng càng khó đối thoại là vì vậy. Nhà văn Phùng Văn Khai đã có những
đối thoại thành công nhờ sự nắm vững đến “gan ruột” đối tượng, biết nảy ra những
nét độc đáo, viết ra với sự thành tâm. Có ba nhóm các gương mặt anh quan tâm là
nhà văn quân đội, nhà thơ quân đội và nghệ sĩ quân đội. Hẳn nhiên, cũng tương đối
vì ngay trong tác phẩm nghệ thuật đường biên ranh giới của thể loại cũng không
rõ ràng, nhưng nhìn từ góc độ tác giả, chịu sự quy định của cái tôi luôn khác
biệt nên cũng dễ thấy những đặc trưng, bút pháp riêng.
Một đặc thù của văn học viết về chiến tranh và người
lính trong 80 năm qua là hầu hết các nhà văn đều từng là người lính cầm súng
trước khi cầm bút, nhất là ở lĩnh vực văn xuôi vốn yêu cầu cao về chất liệu thực
tế. Cuộc sống chiến trường đã tôi luyện người lính không chỉ dày dạn về kinh
nghiệm chiến đấu, còn là sự lớn lên về tâm hồn biết rung động sâu sắc trước cái
đẹp, cái ác; sự ngộ ra các chân lý ở đời… Vì chiến tranh là cuộc thử thách khốc
liệt nhất, như một lò lửa, nếu ai bước qua sẽ trở thành một con người khác.
Tập sách có 38 chân dung, với lứa các nhà văn chống
Pháp: Văn Phác, Siêu Hải, Hữu Mai, Phùng Quán, Nguyễn Khải, Nguyễn Xuân Khánh,
Hồ Phương, Phù Thăng, Dũng Hà, Nguyễn Chí Trung… Nhiều hơn cả là lớp nhà văn chống
Mỹ: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Bảo, Trung Trung Đỉnh, Nguyễn Trí Huân, Tô Đức
Chiêu, Chu Lai… Và những nhà văn thời hậu chiến: Trần Đăng Khoa, Minh Chuyên,
Nguyễn Thế Hùng…
Xếp “đội hình” như vậy cũng không hẳn đúng, như Minh
Chuyên từng là bộ đội đánh Mỹ, sau này viết nhiều hơn về bối cảnh hậu chiến… Sơ
lược như vậy để thấy đội ngũ ấy đều là những nhà văn tiêu biểu, có đóng góp.
Nguyên tắc phác thảo chân dung nhà văn của tập sách là từ không gian trận mạc
đi đến trang văn, như một sự đối chiếu cần thiết, bóng dáng cuộc đời nhà văn
luôn lấp ló trong trang viết.
Lý thuyết nghệ thuật hiện đại quan niệm tác phẩm là mô
hình nghệ thuật, thống nhất nhưng không đồng nhất với cuộc sống. Mô hình ấy là
thước đo rõ nhất tài năng, vốn sống tác giả. Người đọc quan tâm hơn cả tới cách
thức dựng mô hình tức cách kiến tạo/cách kể hơn là nội dung. Chắc chắn Phùng
Văn Khai nắm chắc lý thuyết này nên tìm hiểu kỹ hơn quy trình, công thức nhà
văn lấy chất liệu từ khói lửa chiến trường đưa vào tác phẩm. Đấy cũng là cách
làm sinh động hóa chân dung, vì người đọc luôn muốn khám phá cái thao tác nhà
văn biến hiện thực khốc liệt của chiến tranh thành những thông điệp, những mã
văn hóa về hòa bình như thế nào.
Thế nên những Phù Thăng, Hồ Phương, Hữu Mai… như được
trở về bối cảnh những ngày chống Pháp để tái hiện cái thời rất đỗi trong sáng,
đơn sơ nhưng cũng rất mực anh hùng… Những Nguyễn Bảo, Trung Trung Đỉnh, Nguyễn
Trí Huân… lại được “đặt” vào từng trận đánh, chiến dịch đánh Mỹ cụ thể vừa lột
tả cái ác liệt, dữ dội, vừa nói được về con người kiên cường, quật khởi của thời
đại.
Cuộc kháng chiến chống Pháp đi vào thơ như một giá trị
văn hóa được các nhà thơ soi chiếu từ nhiều góc nhìn khác nhau. Với Chính Hữu,
Vũ Cao, Hoàng Cầm, Thanh Tịnh, Nguyễn Đình Thi… mỗi người mỗi vẻ, bằng phong
cách riêng được Phùng Văn Khai phác thảo theo lối bám sát vào những tác phẩm tiêu
biểu nhất, phân tích bối cảnh sáng tác với hoàn cảnh thời đại và tâm trạng nhà
thơ để làm bật ra nét riêng. Qua đây bật ra một bài học sáng tạo: để có thi phẩm
để đời, thi sỹ phải như cây xanh bám sâu rễ vào mảnh đất đời sống, vươn cành lá
lên bầu trời thời đại quang hợp ánh sáng lý tưởng để kết trái cây tác phẩm nồng
nàn hương vị thời thế và nhân thế. Những “Đồng chí”, “Núi đôi”, “Bên kia sông
Đuống”… chứng minh cho điều ấy. Lứa nhà thơ chống Mỹ, với Thu Bồn, Hữu Thỉnh,
Phạm Ngọc Cảnh… cũng được khắc họa theo lối này.
Những chân dung sinh động, đúng là anh bộ đội thời chống
Mỹ, và đúng với vai trò thi sỹ trong sứ mệnh sáng tạo những mã văn hóa riêng của
thời đại, như một câu thơ Tố Hữu: “Vui gì hơn làm người lính đi đầu/ Trong đêm
tối tim ta làm ngọn lửa”. Tức người lính cụ Hồ đánh Mỹ hoàn toàn tự nguyện, xả
thân, mang tính tiên phong, đậm đà tính lý tưởng. Chân dung các nhà thơ thế hệ
thứ ba (tham gia quân tình nguyện giải phóng Campuchia, chống xâm lược phía Bắc)
như Nguyễn Hữu Quý, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Anh Nông, Hồng Thanh Quang… được đặt
trong thế đối chiếu nghề (thơ) và nghiệp (bộ đội) cùng góc riêng đời tư để truy
tìm tiếng nói của bản thể, trong những “khúc rong chơi” (về Hồng Thanh Quang),
những nét “xanh” của xưa Trường Sơn, nay Trường Sa (về Nguyễn Hữu Quý)…
Vẽ ra gương mặt các họa sĩ thường khó bởi phải hiểu
sâu phong cách cùng giá trị, ý nghĩa của thế giới họa phẩm đã được sáng tạo,
trưng bày. Có người trong nghề, dù hiểu sâu tính bếp núc nhưng chưa đủ vốn ngôn
ngữ văn học nên chưa thuyết phục. Các bài viết tinh tế, sâu sắc của Thái Bá
Vân, Trần Lâm Biền, Chu Quang Trứ, Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng… gần đây là La
Khắc Hòa cũng theo xu hướng phân tích vẻ đẹp họa phẩm hơn là chân dung tác giả.
Các bài viết của Phùng Văn Khai về họa sĩ Mai Văn Hiến,
Đức Dụ, Văn Đa, Quách Đại Hải, Lê Duy Ứng… khác hơn, thiên về đời sống để cắt
nghĩa, lý giải tác phẩm, từ đó khái quát vẻ riêng của chân dung. Các nhạc sĩ (Nguyễn
Đình Thi, Vũ Hùng…) các nhiếp ảnh gia (Hoàng Kim Đáng, Nguyễn Đình Toán…), ca sĩ
Tân Nhân… cũng theo nguyên tắc này. Đó là cách khôn ngoan, không dẫm vào người
đi trước, lại né được cái khó nhất (bởi sự khống chế câu chữ) là vỉa vàng ròng ẩn
sâu, không dễ tìm ra của tác phẩm mà vẫn thỏa mãn người đọc. Cái bí quyết lại nằm
ở cách dẫn chuyện với những kỷ niệm ngoài đời, những chi tiết ý vị, dí dỏm…
80 con đò bài viết đưa bạn đọc đi từ bờ cuộc đời tác
giả sang bờ bên kia thế giới tác phẩm rồi ngược lại. Không chuyến nào giống
chuyến nào, bởi nơi xuất phát khác nhau, cách chèo lái, điểm đến khác nhau nên
tạo ra ở cả tập sách sự phong phú, đa dạng. Đó là cách làm chỉ có ở nhà văn
Phùng Văn Khai, được sự ưu ái của nghề nghiệp mà quen thân đối tượng, thêm sự cần
cù đi sâu tìm tòi những cái riêng, nét mới ở tác phẩm để có những nhận xét,
đánh giá bất ngờ, tinh tế, vừa có tính hàn lâm, kinh viện vừa có chất đời sống
động, tươi tắn.
Được vẽ bằng ngôn ngữ của sự thấu hiểu cả đời, cả văn
rồi được “hô thần nhập tượng” của lòng kính trọng, biết ơn, tri âm, ký thác, nên
dù chiêm ngưỡng “80 gương mặt”, vẫn thấy hiện lên tấm lòng thấu cảm liên tài của
người viết. Được thế, thật khó lắm thay. Cũng thật kính trọng lắm thay. Tôi muốn
gọi gương mặt thứ 81: Nhà văn Phùng Văn Khai đa tài và liên tài.
NGUYỄN THANH TÚ