Trong một buổi tổng kết gần đây, một người có trách nhiệm của Hội nhà văn đã tổng kết rằng: Có rất nhiều lá đơn mà cả người viết đơn và người giới thiệu đã đều… chết mà vẫn chưa được duyệt! Điều ấy cho thấy khao khát được trở thành nhà văn là ước vọng lớn đến thế nào.
NHÀ VĂN “ĐÔNG NHƯ QUÂN NGUYÊN”!
UÔNG TRIỀU
Nhà văn mà “đông như quân Nguyên” ư? Tôi không thậm
xưng mấy đâu, trong các ngành nghề có gắn với chữ “văn nghệ” ở Việt Nam, tôi khẳng
định số người viết văn làm thơ là đông đảo nhất, dù cái nghề ngày càng mất giá
và rất nghèo!
Để chứng minh cho luận điểm của mình, tôi sẽ cho ngay
những con số cụ thể. Ngay từ thời kì 1930 - 1945, giai đoạn văn học Việt hiện đại
vừa mới hình thành, theo nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ thì năm 1944 đã có khoảng
1000 người sống bằng việc viết lách. Đó là một con số rất ấn tượng và tôi tin rằng
Phan Cự Đệ có căn cứ khoa học.
Thời kì tiền chiến gần như là giai đoạn trăm hoa đua nở
của văn học Việt, rất nhiều tờ báo tư nhân, nhà xuất bản tư nhân xuất hiện, những
người liên quan tới việc viết lách rất nhiều. Thời kì ấy đa số các nhà văn là
nhà báo, họ vừa viết tin bài, viết thơ, tiểu thuyết dài kì, chuyện phiếm, đả
kích đăng trên khắp các mặt báo rồi sau đó in vào sách. Viết văn, viết báo là một
nghề mới và được rất nhiều người ưa chuộng, những nhân vật là văn sĩ là nhà báo
xuất hiện trong các tác phẩm của Nam Cao, Nhất Linh, Khái Hưng và các nhiều nhà
văn khác.
Viết văn đã trở thành nghề kiếm sống chuyên nghiệp
trong khi thu nhập mang lại chẳng là bao. Đa số các nhà văn đều sống trong cảnh
nghèo khó, đặc biệt là những người như Tản Đà, Vũ Trọng Phụng, Lan Khai… Đọc
các trang hồi kí của các nhà văn hồi ấy, thấy ai cũng vay nợ liên miên, đến mức
ngày Tết cũng không có nổi vài đồng tiêu vặt có khi phải nhịn đói hoặc chạy vạy
từ nhà này qua nhà khác. Về chuyện đói nghèo của các văn sĩ, tôi rất thích bài
thơ “Gửi Trương Tửu” của Nguyễn Vỹ viết về thời cảnh lúc đó, một bi hài kịch của
các nhà văn nước Việt nhưng không phải không có thật!
“Nay ta thèm rượu nhớ mong ai!
Một mình nhấp nhém, chẳng buồn say!
Trước kia hai thằng hết một nậm,
Trò chuyện dông dài mặt đỏ sẫm.
Nay một mình ta, một be con:
Cạn rượu rồi thơ mới véo von!
Dạo ấy chúng mình nghèo xơ xác,
Mà vẫn coi tiền như cỏ rác!
Kiếm được đồng nào đem tiêu hoang,
Rủ nhau chè chén nói huênh hoang,
Xáo lộn văn chương với chả cá,
Chửi Đông, chửi Tây chửi tất cả,
Rồi ngủ một đêm, mộng với mê,
Sáng dậy nhìn nhau cười hê hê!
Thời thế bây giờ vẫn thấy khó,
Nhà văn An nam khổ như chó!
Mỗi lần cầm bút viết văn chương,
Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương,
Và nhìn chúng mình hì hục viết,
Suốt mấy năm giời kiết vẫn kiết,
Mà thương cho tôi, thương cho anh,
Đã rụng bao nhiêu mái tóc xanh!
Bao giờ chúng mình thật ngất ngưởng?
Tôi làm Trạng nguyên, anh Tể tướng?
Rồi anh bên Võ, tôi bên Văn,
Múa bút tung gươm hả một phen?
Cho bõ căm hờn cái xã hội
Mà anh thường kêu mục, nát, thối?
Cho người làm ruộng, kẻ làm công
Đều được an vui, hớn hở lòng?
Bao giờ chúng mình gạch một chữ
Làm cho đảo điên pho Lịch sử?
Làm cho bốn mươi thế kỷ xưa
Hất mồ nhỏm dây cười say sưa
Để xem hai chàng trai quắc thước
Quét sạch quân thù trên Đất Nước?
Để cho toàn thể dân Việt Nam
Đều được tự do muôn muôn năm?
Để cho muôn muôn đời dân tộc
Hết đói rét, lầm than, tang tóc?
Chứ như bây giờ là trò chơi,
Làm báo làm bung chán mớ đời!
Anh đi che tàn một lũ ngốc,
Triết lý con từu, văn chương cóc!
Con tôi bưng thúng theo đàn bà,
Ra chợ bán Văn, ngày tháng qua!
Cho nên tôi buồn không biết mấy!
Đời còn nhố nhăng ta chịu vậy!
Ngồi buồn lấy rượu uống say sưa,
Bực chí thàng say mấy cũng vừa!
Mẹ cha cái kiếp làm Thi sĩ!
Chơi nước cờ cao gặp vận bĩ!
Rồi đâm ra điên, đâm vẩn vơ,
Rốt cuộc chỉ còn… mộng với mơ!”
Đói khổ như thế mà số người viết văn vẫn đến cả nghìn
là một con số rất đáng bàn, tất nhiên trong những người ấy, không phải tất cả
trông chờ vào ngòi bút, họ là những thư kí, tham tá, ông giáo trường tư…ngoài
công việc nhiệm sở, buôn bán thì viết văn thêm. Văn chương không mang lại ấm no
mấy cho cuộc sống nhưng có vẻ là một thứ nghề rất mốt và được xã hội trân trọng.
Những chuyện đại loại như những tiểu thư “lá ngọc cành vàng” sau khi đọc xong một
cuốn tiểu thuyết lãng mạn liền viết thư hẹn họ với tác giả là những chuyện rất
thật và có lẽ đó cũng là một phần thưởng tinh thần mà cái danh hiệu “văn sĩ”
mang lại và được nhiều người ưa chuộng, khao khát.
Ngay ở thời kì ở miền Nam Việt Nam, theo một nghiên cứu
thì trong một giai đoạn ngắn, từ 1954 đến 1973 đã có gần 200 tiểu thuyết gia! Nếu
cộng cả những người viết thơ, truyện ngắn, trào phúng con số chắc chắn lên đến
hàng nghìn.
Còn bây giờ, con số những người viết văn làm thơ còn
đông gấp bội. Riêng Hội nhà văn Việt Nam đã có hơn một nghìn hội viên và lúc
nào cũng gần 1000 lá đơn xếp hàng chờ đợi trở thành hội viên. Trong một buổi tổng
kết gần đây, một người có trách nhiệm của Hội nhà văn đã tổng kết rằng: Có rất
nhiều lá đơn mà cả người viết đơn và người giới thiệu đã đều… chết mà vẫn chưa
được duyệt! Điều ấy cho thấy khao khát được trở thành nhà văn là ước vọng lớn đến
thế nào. Những con số nói trên chỉ mới tính ở hội trung ương, còn ở các địa
phương, nếu cộng dồn số người viết văn, làm thơ chắc chắn sẽ được một con số rất
ấn tượng. Có một câu thơ khá vui về hiện tượng này, tôi không nhớ là ai viết:
Đất nước chín vạn nhà thơ
Đi trong đêm tối cũng sờ thấy nhau!
Bây giờ ta sẽ tìm nguyên do vì sao có nhiều người viết
văn làm thơ đến thế. Tôi nghĩ yếu tố đầu tiên là truyền thống trọng văn, trọng
chữ của dân tộc. Từ xa xưa, người Việt rất chuộng những người biết chữ, biết
văn. Những ông đồ, ông giáo dạy chữ thánh hiền thỉnh thoảng viết những bài thơ,
câu đối đều được kính trọng khâm phục. Tục lệ đi xin chữ, xin câu đối treo
trong nhà là một truyền thống rất lâu đời và gần đây mới mai một đi.
Trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” Nguyễn Tuân đã
miêu tả viên quản ngục đã đối đãi với một kẻ từ tù trọng thị và khúm núm thế
nào chỉ để mong rằng người ấy cảm động ban cho vài chữ treo trong nhà. Những chữ
ấy khác gì những báu vật, nhất là người cho chữ nổi tiếng là bậc tài cao, học rộng,
khí chất ngút trời!
Trọng chữ, trọng văn nên thậm chí trong một làng xã,
khi có các viên quan văn, quan võ cùng nghỉ hưu thì dường như vị quan văn vẫn
được người ta kính trọng, tôn sùng hơn. Ta có thấy rõ điều này khi đọc sách của
những Ngô Tất Tố, Nam Cao, Khái Hưng… trong những tác phẩm viết về nông thôn Việt
Nam. Một người xuất thân khoa bảng và có những áng văn thơ lưu danh thì không
những là niềm tự hào của dòng họ ấy mà còn cả làng, cả tổng, cả huyện… Trong
cách đặt tên truyền thống của người Việt, nhất là đối với nam giới, ta thấy rất
nhiều người có chữ đệm là “văn” ở giữa, ví dụ: Nguyễn Văn Bình, Trần Văn Hiền,
Đỗ Văn Hiếu… là minh chứng cho sự chuộng văn đã ăn sâu vào máu người Việt thế
nào.
Thời hiện đại, văn chương đã bớt đi những danh giá vốn
có của mình nhưng nó vẫn là đam mê, khát vọng của rất nhiều người. Văn chương của
những người chuyên nghiệp, viết văn để theo đuổi ước mơ bất tử hoặc mưu sinh đã
không ít, lại còn một bộ phận không nhỏ viết văn để giải khuây, để tâm sự, ghi
lại cuộc sống đời thường. Tôi sẽ nói thêm chút về những người ở vế sau. Rất nhiều
người, ví dụ khi đã nghỉ hưu hoặc có một quãng thời gian thảnh thơi, nhàn rỗi họ
liền lấy thơ văn làm niềm giải khuây. Những người ấy có thể có giấc mơ văn
chương từ lúc trẻ nhưng chưa có điều kiện vì thiếu thời gian, bận công việc, giờ
là lúc thực hiện những khát vọng của mình. Hoặc khi nghỉ hưu, quỹ thời gian rảnh
rỗi quá lớn, nhiều người lấy văn chương để lấp đầy những khoảng trống ấy, để có
cơ hội gặp gỡ bạn bè chung sở thích, một chút vui vẻ, an nhiên lúc xế chiều.
Một số ý kiến khắt khe cho rằng, không thể gọi những
người hoạt động văn chương nghiệp dư là nhà văn được. Tôi nghĩ cũng không cần
quá rạch ròi như thế vì trước hết văn chương là thứ rất khó lượng đoán. Thứ
nhì, có thẻ hội viên là nhà văn toàn quốc cũng không có gì đảm bảo những gì anh
viết ra là hay hoặc có giá trị. Nhà văn là một danh hiệu rất mơ hồ, nhiều khi
chúng ta quá kì vọng và ảo tưởng về nó quá. Văn chương đôi khi chỉ là một cuộc
chơi, một thú vui mà bất kì ai cũng có thể tham dự.
Nhưng nói đi thì nói lại, cũng như bất kì nghề nghiệp nào khác, văn chương cũng cần những tiêu chuẩn nhất định để đánh giá. Tôi nghĩ rằng sự đánh giá công bằng nhất là độc giả và thời gian. Được độc giả thích thú hoặc mong chờ (kể cả ít thôi cũng được) và không bị thời gian đào thải quá nhanh thì đã là thành công của người viết rồi. Đội ngũ nhà văn có “đông như quân Nguyên” nhưng trong số ấy thỉnh thoảng nhô lên vài viên tướng giỏi, dăm dũng sĩ quả cảm đã là điều may mắn cho cả nền văn học rồi!