Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật cho rằng: “Các nhà phê bình để
chắc ăn thường đào bới các sản phẩm văn chương kinh điển, đã định hình, được khẳng
định. Họ ái ngại khi đụng chạm tới lớp nhà văn sáng tạo bởi thi pháp mới, không
biết rồi sẽ đi tới đâu, không dám mổ xẻ đánh giá thật công minh khoa học”.
Thơ luôn tự lột xác
HOÀNG VŨ THUẬT
Thơ cần mới, lẽ hiển nhiên không thể đảo ngược. Xâu
chuỗi thơ hay từ thời Thơ Mới, thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, thơ trong
vùng đô thị miền Nam và các thế hệ sau năm 1975 sẽ hiện rõ lộ trình bức tranh
thơ Việt. Ở đó, mỗi nhà thơ xác lập cho mình một con đường, một phong cách, một
xác tín.
Nhiều nhà thơ, nhiều khuynh hướng, trường phái xây nên
nền thơ. Sự cộng hưởng, giao thoa hay khác biệt, thậm chí dị biệt đều có khả
năng thúc đẩy, mở rộng làm giàu thi pháp, làm giàu trí tuệ một nền thơ.
Thơ không vần của Nguyễn Đình Thi năm 1949, muốn thoát
khỏi chiếc áo chật hẹp, gò bó đã là tâm điểm “xung đột trường phái”. Chỉ vì
Nguyễn Đình Thi vượt quá chuẩn mực của Thơ Mới xuất hiện không lâu trước đó.
Ngay cả Xuân Diệu thời ấy cũng cho rằng thơ Nguyễn Đình Thi tán loạn như trong
một bức tranh siêu thực. Còn Thế Lữ thì cho đó là cái thú bệnh tật, nguy hiểm.
Thời chống Mỹ, cuối những năm 60, đầu 70 của thế kỷ
trước, Việt Phương với tập “Cửa mở” trở thành hiện tượng cá biệt, bị phê phán
gay gắt, bởi vì hình thức và tư duy thơ ông không giống với tiếng thơ cùng thời,
vì tư tưởng cấp tiến của ông trong cách nhìn nhận hiện thực xã hội. Trong khi ấy,
giữa lòng đô thị miền Nam, Ngô Kha, Trần Quang Long, Trần Vàng Sao xuất hiện với
những khuynh hướng sáng tác đa dạng, siêu hình được các tầng lớp trí thức sinh
viên đón nhận, chuyền tay nhau đọc như tác phẩm gối đầu giường thì bị chính quyền
Sài Gòn săn lùng, bởi vì tác phẩm của họ chứa đựng tinh thần yêu nước, đòi hòa
bình, đòi thống nhất Tổ quốc.
Bây giờ đọc thơ không vần của mọi thế hệ, được mở rộng
về chiều kích cảm quan, độc đáo, phóng khoáng trong hoạt động thẩm mỹ, quyết liệt
trong cách tân: “Ngày mai vẫn con đường đầy bụi/ buổi sáng với danh sách dài những
việc chưa làm - ngày mai vẫn hàng cây bên đường cằn cỗi/ quán café chật không
biết cất nỗi buồn thiên hạ vào đâu - ngày mai con ta đến lớp cặp kính ngay ngắn
trên sống mũi/ vẻ trịnh trọng thơ ngây lạ lẫm - bao nhiêu ngày mai, bao nhiêu
cánh cửa đóng chặt được mở ra” ("Tỉnh táo" - Trần Kim Hoa).
Lê Vĩnh Tài qua các tập thơ và trường ca, đã vạch lối
đi riêng biệt. Thơ anh nhìn đau đáu, xoáy sâu vào thế giới đời sống tiềm ẩn, mới
về cảm xúc và tư duy:
làm sao thơ dám nhận về mình
tờ giấy trắng câu thơ đau phát khóc
và gió đẩy câu thơ về mùa hạ
trên hồ nước một mái chèo mỏi mệt
suốt đêm dòng sông mãnh liệt
đang ngốn ngấu bằng trí tưởng tượng
làm rách chiếc áo của gió
và lăn tròn hai nụ của hoa
(Bài thơ về tờ giấy)
Dẫn liệu trên cho thấy tiến trình thơ Việt không ngừng
chuyển đổi, chưa bao giờ chịu ngưng nghỉ. Cuộc chuyển đổi, phát triển đó theo
hình xoáy trôn ốc, trong bối cảnh xã hội nhiều biến động mà vai trò quyết định
vẫn là bản lĩnh sáng tạo của mỗi nhà thơ. Đơn giản vì nhà thơ là người đẻ ra
tác phẩm, không ai làm thay được. Chuyển động của thơ Việt hơn 70 năm qua dẫu
đa đoan, thân phận; nhưng luôn ở vào cái thế tự phủ định để hướng tới chân trời
nghệ thuật với mong ước khoáng đãng hơn, phóng túng hơn. Chủ thể sáng tạo thì
muốn quăng mình vào cơn lốc, muốn tự do đào bới, muốn thay đổi cái trật tự vốn
quen thuộc, nhàm mòn; mà môi trường và điều kiện cứ như bàn tay vô hình thường
xuyên níu kéo trở về vị trí xuất phát.
Các cuộc tranh luận trên văn đàn bấy lâu chứng tỏ vẫn
còn cái nhìn thiếu thiện cảm với các nhà thơ các cây bút mạnh dạn tìm tòi, phát
kiến. Cứ thấy cái gì khác lạ ngày hôm trước đã canh chừng. Cứ thấy đưa tính dục
vào thơ đã la lối lên, hoặc liệt vào hai tiếng “nhạy cảm”…
Lớp nhà thơ trẻ hiện tại khá đông, hình thành một thế
hệ có tính bền vững. Thơ họ mỗi người một lập trình. Tôi biết không chỉ ở Hà Nội
và vùng phụ cận, các tỉnh và trung tâm đô thị miền cực Bắc, miền Trung, các
nhóm thơ ở thành phố Hồ Chí Minh và vùng đồng bằng sông Cửu Long hình thành khá
đông. Có điều trong số họ, nhiều người không may mắn, không được xuất hiện trọn
vẹn gương mặt mình trên sách báo. Sự dè dặt của các cơ quan nắm quyền xuất bản
khi đụng tới thứ sản phẩm cho là lạ lùng này.
Các nhà phê bình để chắc ăn thường đào bới các sản phẩm
văn chương kinh điển, đã định hình, được khẳng định. Họ ái ngại khi đụng chạm tới
lớp nhà văn sáng tạo bởi thi pháp mới, không biết rồi sẽ đi tới đâu, không dám
mổ xẻ đánh giá thật công minh khoa học. Có chăng là những bài viết về văn
chương thế hệ này chung chung với cái nhìn lo lắng bấp bênh chưa đủ tâm phục khẩu
phục.
Rõ là sự đối xử trên văn đàn thiếu công bằng và dân chủ.
Vô hình chung, chúng ta lảng tránh, ngồi chờ kết quả sáng tạo của lớp trẻ rõ
ràng mười mươi mới vào cuộc. Nói thẳng ra, sự dặt dè này cũng là tội lỗi, là giải
pháp tiêu cực, tiếp tay cho căn bệnh kinh niên khó chữa như đã nói ở trên,
trong khi thế hệ này, không ai khác là chủ nhân nền văn học nước nhà của ngày
mai không xa.
Vậy thì làm sao bàn thảo một cách đầy đủ, kĩ lưỡng về
thành tựu đổi mới để có nhiều tác phẩm chất lượng cao?
Xét cho cùng, dẫu còn lắm trắc ẩn khi nhìn thẳng vào
vóc dáng thơ Việt hôm nay, nhưng tự bản chất, tự thực tế phơi bày, thơ Việt đã
hợp lưu từ nhiều nguồn sáng tạo khác nhau, hình thành một dòng chảy không thể
cưỡng lại.
Vậy thì thơ Việt trong sự vận động làm mới có còn giữ
được tính dân tộc nữa hay không? Câu trả lời chỉ có thể, tại sao lại không? Bản
sắc dân tộc chính là cái hay, cái đẹp, cái mới do các nhà thơ Việt Nam mang lại.
Chẳng lẽ cứ rập khuôn hình thức có sẵn, nhấm nháp vẻ đẹp truyền thống, khư khư
ôm chặt tinh hoa cha ông mới là giữ vững bản sắc? Như thế làm sao phong trào
Thơ Mới có thể bùng nổ như một cuộc cách mạng, làm đảo lộn bao nếp nghĩ của các
bậc đồ Nho ngự trị hàng trăm năm trước. Trong khi chủ nhân của phong trào này đều
mười tám đôi mươi, có người chỉ mới 16 tuổi như Chế Lan Viên với tập “Điêu tàn”
gây xôn xao dư luận, làm bàng hoàng sửng sốt độc giả thời ấy.
Thơ Việt hiện nay cũng vậy, không thể cài then sập cửa,
chối từ các khuynh hướng nghệ thuật, phương pháp sáng tác, chối từ cái tôi muôn
thuở của thơ. Thơ sẽ bị dồn vào cái thế chật chội, bức bối như người đẹp bị cấm
cung, không được phô bày gương mặt kiều diễm của mình với thiên hạ. Đến như
Dương Tường, Lê Đạt những bậc cao niên thời chống Pháp, lẽ ra thơ các vị phải
cùng chung dòng chảy. Điều đáng trọng, các nhà thơ ấy không chịu để cho số phận
thơ già cỗi, tiếp tục ra mắt cùng độc giả những bài thơ rất hiện đại:
thời gian như một cái nhìn vàng
tôi vẫn phi tôi
vẫn lạc lối hoài trong một im lặng trầm
đa giác
("Sinh nhật" - Dương Tường)
Dương Tường chủ xướng thi pháp âm bồi, bỏ qua các khái
niệm chủ đề hướng thơ vào cuộc chơi duy mỹ (chữ Hoàng Hưng), biểu lộ rõ nhất
qua tập “Thơ Dương Tường” do Nhà xuất bản Hải Phòng ấn hành. Còn Lê Đạt phát biểu
quan niệm của ông ở bài "Hai Kâu - một lối viết phối ngẫu giữa thơ và kiến
giải thơ", in trên Tạp chí Thơ cho ta cảm phục sự dấn thân đến cùng của một
trái tim thơ lao lý thời Nhân văn giai phẩm.
Chấp nhận hiện tượng các thế hệ nhà thơ tự lột xác, chấp
nhận thi pháp mới của mọi thế hệ trong bối cảnh xã hội khác ngày hôm trước, cho
dù có khi làm gai mắt người đọc, đó là sự tiếp nhận trên tinh thần khoa học để
làm giàu thêm dáng vẻ thơ Việt. Trên con đường chông gai với khát vọng cháy bỏng,
sự dẫm đạp, na ná, tương tác, có khi ngược chiều trong sáng tạo, chớ vội phủ nhận,
hãy kiên nhẫn chờ đợi. Đó cũng là sự tiếp nhận có lương tâm đối với nghệ thuật.
Cuộc chuyển dạ nào chẳng đau đớn vật vã để sản sinh một
sinh linh mới. Bản ngã dân tộc in đậm trong cuộc tìm kiếm vô biên của bao thế hệ
đi qua và bao thế hệ đang tới. Cần nhìn nhận tính dân tộc trong sự vận động và
phát triển của nó. Trong cuộc tìm kiếm này bao thế hệ nhà thơ đã làm giàu thêm
vốn ngôn ngữ tiếng Việt. Khả năng ngôn ngữ được mở rộng hơn về mặt mỹ học, về
tư duy, linh hoạt hơn trong biểu hiện, biểu cảm, trong cấu trúc ngữ pháp. Đây
là sự đóng góp không nhỏ trong tiến trình xây dựng nền văn hóa phát triển, đậm
đà bản sắc.
Một nền thơ tiến bộ và đổi mới, nền thơ đó phải thừa
nhận mọi giá trị nghệ thuật người tạo ra nó ở đó cùng tồn tại nhiều chủng loại,
nhiều hình hài, giọng điệu, nhiều gương mặt. Dĩ nhiên thời gian vẫn là cái sàng
sẩy tinh tường nhất.
Nguồn: Văn Nghệ Công An