Khi tìm đường, khi nhận đường và lúc nào cũng cần ý
chí, cần kiên trì. Họ biết cái giá phải trả cho cuộc thay đổi chính mình và tài
năng mình. Có người đã vượt được lên, phong phú hơn xưa. Nhưng nhiều hơn là giữ
được mật độ tài năng nhưng trên hướng khác.
Trách nhiệm và khát vọng của nhà thơ
VŨ QUẦN PHƯƠNG
Dưới nhiều tên gọi khác nhau, vấn đề “trách nhiệm và
khát vọng” luôn hiện diện trong nhiều cuộc đàm đạo văn chương, từ cổ đến
kim, từ Phương Đông sang Phương Tây. Gần đây nhất là các cuộc tranh luận quanh
chủ đề chức năng của nghệ thuật. Nghệ thuật phục vụ cho cuộc đời, đấu tranh cho
hạnh phúc con người hay nghệ thuật chỉ phục vụ cho chính nó. Bên nào cũng có
lý. Và không bên nào có lý hoàn toàn.
Những cuộc tranh cãi thường dừng lại nửa chừng vì có
chỗ cho hai bên cùng nương náu: Ấy là chỗ muốn giúp đời, thực thi được trách
nhiệm với xã hội thì trước hết nghệ thuật phải thật sự là nghệ thuật. Quyển
truyện không hay, bản nhạc tồi, bức tranh xấu không ai buồn đụng đến thì dù ý định
tốt đến mấy, tác phẩm ấy cũng chả tác động được đến ai.
Như vậy muốn văn giúp được đời cũng phải làm văn hay.
Nghĩa là cũng cần vị nghệ thuật. Ngược lại, vào những năm nhà thơ Tố Hữu đã nghỉ
hưu, có lần tôi hỏi ông: “Sao anh ít viết thơ tình yêu, ít quá. Có phải vì anh
“làm to” sớm quá, viết thơ tình sợ mất nghiêm?”. Tố Hữu cười và nói như tâm sự:
“Chắc là không. Trong kháng chiến chống Pháp, tôi đang tuổi tìm hiểu, đi chơi với
nhau cũng không muốn đi qua những anh em trong cơ quan, những người đang xa vợ
con, gọi là thoát ly để lên chiến khu. Tự mình thấy ngượng. Không làm thơ là vì
thế. Xuân Diệu hồi “thơ mới” còn được gọi là ông hoàng thơ tình mà khi ấy cũng
ngừng viết. Lúc đó mà than, mà giục “Mau với chứ, vội vàng lên với chứ, Em
ơi em tình non sắp già rồi”, e không hợp. Nhưng “Đợi anh về” của Xi mô nốp
thì hợp. Tôi không viết được thơ tình nhưng đã dịch “Đợi anh về”. Các cậu
cứ coi đấy là giọng thơ tình của mình khi đó”.
Qua mấy câu tếu táo ấy của nhà thơ Tố Hữu, tôi nhận ra
một thú nhận thật lòng, rất thật lòng về trách nhiệm xã hội của nhà thơ khi ấy.
Trách nhiệm ấy, đối với Tố Hữu đã thành một bản năng. Nó tự động len vào cảm
xúc, chi phối cả cảm hứng thơ. Điều ấy chúng ta đều thấy và nghĩ nó là chuyện
đương nhiên vì Tố Hữu đến với thơ cùng lúc đến với cách mạng. Lý tưởng cách mạng
là cảm hứng chủ đạo của thơ của ông: “Tôi đã là con của vạn nhà/ là em của vạn
kiếp phôi pha/ Là anh của vạn đầu em nhỏ/ Không áo cơm cầu bất cầu bơ”
Trách nhiệm với vận mệnh của đất hước và hạnh phúc của
nhân dân luôn luôn được đặt lên hàng đầu trong thơ Tố Hữu. Bài thơ “Đêm cuối năm”
viết cuối năm 1981, khi đất nước ta và trong toàn phe xã hội chủ nghĩa phát hiện
ra những sai lầm trong mô hình làm kinh tế. Câu thơ mở đầu bài thơ: một không
gian chật hẹp và cô đơn “Đêm cuối năm riêng một ngọn đèn” với một
giác ngộ không vui, đúng ra là là có phần cay đắng, thất bại “Làm ăn hai
chữ quen mà lạ, thế cuộc nhân tình, rõ trắng đen”. Tôi nghĩ sắp được thấy nỗi
lòng riêng tư của một nhà thơ lớn có quyền to nhưng đang gặp khó trong chỉ đạo
kinh tế. Nhưng không, chỉ hai câu đó thôi. Còn cả bài thơ, ông nhập vào niềm
vui chung của cách làm ăn mới “gỡ lối “bao” xưa, người mọc cánh/ được
mùa “khoán” mới, đất lên men”. Bao là bao cấp, phải gỡ ra. Khoán là khoán
mới, đang được áp dụng. Tôi chưa bình về hay dở của thơ. Nhưng tôi thấy ở đây,
một nhà thơ rất sành về nghệ thuật thơ đang thực thi trách nhiệm cổ động của
thơ mình đối với cách làm ăn mới, dù trong lòng còn điều cấn cái “Ai đi ra chợ
mà mua anh hùng”.
Có lần tôi nói với ông 6 câu mở đầu của bài “Tiếng
hát sông Hương” là hình ảnh một con thuyền in bóng xuống dòng sông. Mở đầu
mặt sông yên tĩnh và mơ mộng nhưng sau đó cuộc đời cô gái trên sông lại đầy bão
gió. Tố Hữu thích thú ngạc nhiên: “Hay hè, mình cũng không nhận ra đấy. Tài hè!”.
Nhưng khi tôi tỏ ý phân vân: trong bài “Bầm ơi”, anh mở đầu bằng tình mẹ con
sâu nặng thế mà đến giữa bài anh lại viết: “Con đi đánh giặc gian lao, xa
bầm con lại có bao nhiêu bầm”. Xa mẹ mà nói với mẹ thế, bà cụ tủi lắm anh
ơi. Chết. Chả anh bộ đội nào nói thế. Nhà thơ nói nhưng đặt vào miệng anh bộ đội,
để cổ động phong trào “mẹ chiến sĩ”. Em được học bài này cuối cấp III, Ấn tượng
cảm xúc vẫn rơi vào tình mẫu tử”.
Tố Hữu lắng nghe, anh không ngạc nhiên như lần trước.
Tôi nói hết thì im, nhìn anh. Một lúc anh mới nói: “Tôi ít có dịp làm thơ vì
thơ, hay làm thơ vì tôi như có lần tôi đã nói, khi Phương hỏi tôi sao ít thơ
tình. Hồi “Từ ấy” tôi làm thơ tuyên truyền lý tưởng. Còn về sau, tôi
giải thích chính sách”. Quả thế thật, thơ Tố Hữu tỏa ra nhiều đề tài, có những
đề tài rất đời thường, như tiếng chổi tre quét trên đường phố đêm hay lời hát mẹ
ru con …nhưng bao giờ cũng hướng vào chủ đề cách mạng. Có khi ông viết như tuyên
ngôn về lao động thơ: “Dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ/ Hơn nghìn trang giấy luận
văn chương”
Kỳ diệu nhất là trong và sau Cách mạng Tháng 8/1945, hầu
hết các văn nghệ sĩ đã tập hợp dướí cờ Mặt trận Việt Minh, khởi nghĩa giành
chính quyền và tiến hành kháng chiến chống Pháp. Riêng về thơ, đông đảo nhất
trong các nhà thơ đương thời khi ấy là các nhà thơ lãng mạn xuất hiện và trưởng
thành trong phong trào Thơ Mới, khoảng 10 năm 1932-1942.
Trong tiến trình thơ nước ta trong 10 thế kỉ, từ thơ của
các bậc cao tăng như Vạn Hạnh, Mãn Giác qua Trần Tung, Trần Nhân Tông, rồi Nguyễn
Trãi, Nguyễn Du, Đoàn Thi Điểm, Nguyễn Gia Thiều, đến Nguyễn Khuyến, Tú Xương,
Tản Đà… đều là thành tựu cá nhân của từng thời điểm lịch sử. Nhưng mười năm 1932-
1942 ấy là cả một phong trào, bỏ thơ cổ điển sang các thể thơ mới do họ sáng chế
ra, đủ để biểu hiện những cảm xúc những tư tưởng chưa từng có trong thơ Việt.
Bước cách tân đó thật triệt để, mở ra một trời đất mới
của chủ nghĩa lãng mạn cho thơ Việt. Và thành tựu về tác phẩm, tác giả thì thật
huy hoàng. Huy hoàng đến nỗi nhà phê bình Lê Tràng Kiều, một người được tin cậy
trong thẩm bình thơ của thuở đó, đã đem thơ tả âm thanh của Thế Lữ ra so với
thơ Nguyễn Du. Một so sánh hẹp thôi, chứ đâu dám so sánh với Truyện Kiều mông
mênh nhân thế, nhưng ở khoảng hẹp ấy, Thế Lữ có những điểm trội mà Nguyễn Du
hay thời đại Nguyễn Du chưa hình thành được. Thế Lữ đã tả âm thanh bằng hình ảnh,
bằng tâm trạng. Người đọc cảm giác được dễ dàng, nhanh, nhạy và toàn diện sắc
thái thần kỳ của âm thanh ấy: “Cao như thông vút, buồn như liễu/ Nước lăng, mây
ngừng, ta đứng yên”.
Những kiện tướng của phong trào Thơ Mới, theo cách
đánh giá của Hoài Thanh khi viết Thi nhân Việt Nam, trong mười năm đã tạo được
thành tựụ cho thơ ngang với hai thế kỷ lao động của các nhà thơ châu Âu. Trong
gia tài mười thế kỷ thơ Việt, theo tôi, đây là những trang lãng mạn long lanh
nhất. Ấy vậy mà khi Đảng Cộng sản phất cờ khởi nghĩa và kêu gọi kháng chiến giữ
nước những nhà thơ ấy, Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư,
Nguyễn Bính, Yến Lan, Phạm Huy Thông, Vũ Đình Liên… đã là những người có mặt, sẵn
sàng từ bỏ những tác phẩm huy hoàng của quá khứ để thành người lính cách mạng,
lấy bút mực làm vũ khí, sáng tạo nên văn chương cách mạng, góp sức, góp máu
xương giành độc lập, tự do, thống nhất cho đất nước.
Một cuộc đổi thay bắt đầu bằng sự đoạn tuyệt với thành
tựu văn chương của chính mình. Bao nhiêu vất vả nhiêu khê. Khi tìm đường, khi
nhận đường và lúc nào cũng cần ý chí, cần kiên trì. Họ biết cái giá phải trả
cho cuộc thay đổi chính mình và tài năng mình. Có người đã vượt được lên, phong
phú hơn xưa. Nhưng nhiều hơn là giữ được mật độ tài năng nhưng trên hướng khác.
Người sụt đi cũng có. Họ biết cả đấy. Không ảo tưởng đâu. Biết cái giá phải trả
và họ là người nhận trả. Họ đã đi đến đích. Chúng ta hôm nay, lứa con em “trực
hệ” của họ vừa long trọng làm kỷ niệm 100 năm ngày sinh từng người trong lứa họ
kỷ niệm bằng một lần nữa đọc lại họ, kỹ hơn, từ A đến Z thấm thía hiểu những gì
họ ký thác.
Xin được trích ở đây một tiếng thầm bốn câu trích từ
bài thơ anh Chế Lan Viên viết sau kháng chiến chống Pháp: “Có tiếng nhỏ của
sông Thương nước mắt/ Sông nhớ thương ơi nước chảy đôi dòng/ Lòng ta là cánh đồng
lẩn khuất/ Đau bên đoài nên thổi gió bên đông”.
Khi trao cho tôi nhiệm vụ viết bài tham luận này, nhà
thơ Trần Anh Thái, chủ tịch Hội đồng thơ của Hôi Nhà văn VN có trao cả cái chủ
đề “Trách nhiệm và khát vọng của nhà thơ”, và còn nói thêm: để ông tham khảo,
còn ông muốn viết gì thì viết.
Ban tổ chức đã cho một khoảng rộng thế là quý hóa lắm,
Nhưng trong quá trình viết tôi vẫn cứ bị chủ đề trách nhiệm và khát vọng ấy ám ảnh.
“Trách nhiệm và khát vọng” về định tính, chúng như nhau, đều là những đòi hỏi
tích cực của cuộc đời mà mỗi chúng ta nên hoàn thiện, cần hoàn thiện, phải hoàn
thiện. Nhưng về định lượng thì có khác nhau. Trách nhiệm có tính cách bắt buộc,
như bổn phận, không hoàn thành là thiếu sót, nhưng cái đích ngắn hơn, cụ thể
hơn, nhiều khi như việc của thường ngày. Khát vọng thì không bắt buộc ai cũng
phải có, phải trưng ra, cái đích đến của khát vọng cũng cao hơn, cũng xa hơn,
nhiều khi là cả đời người.
Những ví dụ chúng tôi nói trên gần với những gì là
trách nhiệm của nhà văn khi đất nước lâm nguy nhưng thấp thoáng sau những việc
hàng ngày ấy lại là một thực thi khát vọng.
Để tách bạch rõ hơn tôi xin mượn một cách ứng xử với
thơ của Nguyễn Đình Thi. Vào cuối năm 1949 ở chiến khu Việt Bắc có cuộc nhận
xét thơ Nguyễn Đình Thi, thơ anh bị chê là khó hiểu, không tiếp nhận được. Công
chúng thơ lúc đó chủ yếu là bà con nông dân, công nhân và bộ đội Cuộc họp giữa
những nhà thơ, nhà văn hàng đầu của giới sáng tác. Không đông người dự nhưng là
những ý kiến thiết thực, phản ánh một yêu cầu của bạn đọc cũng là một trách nhiệm
lớn của người cầm bút. Cũng có ý kiến cực đoan muốn phủ nhận sạch trơn loại thơ
này.
Nguyễn Đình Thi ngồi dự tiếp nhận và sửa chữa nghiêm
chỉnh. Sau đó, ông đã dùng thể lục bát viết một truyện thơ về cải cách ruộng đất “Mẹ
con đồng chí Chanh”, có nhiều đoạn cảm động, cốt truyện dễ nắm bắt. Mấy năm sau
nữa, ông hoàn thành trường ca “Bài thơ Hắc Hải”, dễ đọc đễ hiểu được coi
là một thành tựu của nền thơ.
Về những bài thơ cụ thể được cuộc họp dẫn ra phê phán,
ông đã sửa chữa công phu như đúc hai bài thơ khó hiểu “Sáng mát trong như
sáng năm xưa” và “Đêm mit tinh” thành bài “Đất nước” được
coi là bải thơ thành tưu của kháng chiến chống Pháp, được giảng trong bậc trung
học liên tục hơn nửa thế kỷ nay và thành đề văn cho nhiều khóa thi tú tài.
Tôi chắc Nguyễn Đình Thi đã lao động nghiêm cẩn, tâm
phục khẩu phục, trong việc sửa chữa ấy nên mới có có kết quả tôt đẹp như vậy.
Đây chính là phần ông thực thi trách nhiệm nhà văn trước đòi hỏi của cuộc đời.
Nhưng khi in tuyển tập thơ, vào năm 1998, khi đất nước
đã qua hơn mười năm đổi mới, có nhiều biến động trong quan điểm văn chương và mọi
mặt cuộc sống, Nguyễn Đình Thi đã cho in lại các bài thơ, cả bản đã sửa và cả
các bài tiền thân của nó. Tôi hiểu là ông “trình làng” lại khát vọng cách tân
thơ của ông từ nửa thế kỷ trước. Khát vọng ấy chưa đủ chín trong thực hiện,
trong kết quả nhưng nó không hề tắt trong lòng ông. Chính vì vậy mà thơ ông sau
này không còn khó hiểu mà vẫn đạt được những tiêu chí ông mong ước như ý thơ
kín đáo hàm súc, tiết kiệm lời, tiết kiệm chất liệu thơ, tác giả không đuổi
theo vần nhưng bạn đọc vẫn nhận ra nhịp điệu, một thứ nhịp bên trong, rất nội
tâm, cất lên từ sự chân thật của tấm lòng.