Chúng ta
có thể “vỗ ngực tự hào” rằng có đội ngũ giáo sư, tiến sĩ hùng hậu, có tỷ lệ người
tốt nghiệp đại học ở mức cao trên thế giới... Nhưng, ít ai dám thừa nhận rằng
trí tuệ, óc sáng tạo của người Việt còn nhiều hạn chế.
Bàn về nạn
sính bằng cấp ở ta
NGUYỄN NHƯ
PHONG
Tổng Bí
thư Tô Lâm vừa có bài viết “Học tập suốt đời” với những thông điệp rõ ràng, ý
nghĩa về sự học để nâng cao năng lực mỗi cá nhân, phụng sự tốt Tổ quốc và nhân
dân. Trong bài viết này, Tổng Bí thư thẳng thắn phê phán tình trạng học theo
phong trào và nạn sính bằng cấp, đồng thời nêu ra những yêu cầu về xây dựng con
người mới trong “kỷ nguyên vươn mình”.
Trong bài
viết, Tổng Bí thư Tô Lâm phân tích thực trạng đáng lo ngại: “Tình trạng hạn chế
về chuyên môn, nghiệp vụ, chủ nghĩa cá nhân, bệnh kinh nghiệm trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên ảnh hưởng đến chất lượng thực thi công vụ, chất lượng phục vụ
nhân dân; ảnh hưởng đến tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách
nhiệm; triệt tiêu động lực đổi mới, sáng tạo, không đủ nền tảng kiến thức và tự
tin về năng lực đề xuất, thực hiện những sáng kiến, giải pháp đột phá.
Một bộ phận
cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thỏa mãn với kiến thức đã học
trong các trường lớp, cơ sở đào tạo, hoặc chạy theo việc học để hoàn thiện bằng
cấp đủ điều kiện thăng tiến, không chịu nghiên cứu, học hỏi thường xuyên để
nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực quản lý, kiến thức, kỹ năng hội nhập và
khả năng thích ứng...
Một bộ phận
biểu hiện ngại học, không có khái niệm học thường xuyên, học suốt đời nên trở
thành lạc hậu, bảo thủ, không thích nghi và bắt nhịp với “guồng quay” hối hả của
nhịp sống “vũ bão” thời khoa học và công nghệ 4.0 và X.0”.
Từ những
điều Tổng Bí thư nói, chúng ta có thể thấy, chính nạn sính bằng cấp và học
theo phong trào đã làm cho nền giáo dục hiện nay như “con thuyền đi trên biển lớn
mà mất lái”. Càng cải tiến thì càng rối, càng cấm học thêm, dạy thêm thì nạn học
thêm, dạy thêm lại càng phát triển một cách tinh vi hơn. Học sinh bây giờ đến
trường không còn là “một ngày vui”, các em bị tước đoạt đi tuổi thơ để cõng những
chiếc ba lô nặng trĩu và vùi đầu vào các giờ học thêm...
Còn cán bộ,
công chức thì cũng đua nhau đi học thạc sĩ, tiến sĩ nhưng nhiều người trình độ
thực tế lại kém xa với những tấm bằng có trong tay.
Nói về hậu
quả của nạn sính bằng cấp, tôi xin dẫn chứng câu chuyện nhỏ. Tôi đến nhà máy sản
xuất kính nổi Chu Lai và thấy ở đây có một loại công việc nhẹ nhàng, đơn giản hết
mức, đó là một tấm kính vừa cán xong được đẩy ra khỏi dây chuyền thì 2 người
kéo một tấm giấy đặt lên để chờ tấm kính sau - công việc chỉ có vậy. Nhưng, tôi
vô cùng ngạc nhiên khi được biết, mấy nữ công nhân làm công việc này đều đã tốt
nghiệp đại học. Rồi, hỏi thêm mới biết có tới 30% công nhân lao động phổ thông ở
nhà máy đều đã... tốt nghiệp đại học. Hóa ra, rất nhiều người có bằng tốt nghiệp
đại học nhưng phải đi làm những công việc mà chỉ cần trình độ tiểu học là đủ.
Nạn sính bằng
cấp đã gây ra không biết bao nhiêu hệ lụy, đó là tình trạng mua bằng cấp, học
giả bằng thật, thậm chí mua bằng giả cho đẹp hồ sơ... Đã có không ít người thân
bại danh liệt vì sử dụng bằng cấp giả, nhưng tại sao, nạn học theo phong trào
và sính bằng cấp ở ta lại phát triển ghê gớm như vậy?
Đầu tiên,
phải nói đến tâm lý của người Việt từ ngàn đời nay là chỉ có học mới có con đường
tiến thân, “nhân bất học, bất tri lý”, rồi “ấu bất học, lão hàn vi”... Nghĩa
là, chỉ có đi học, có bằng cấp mới có thể làm quan - thời phong kiến xưa là thế.
Đến thời nay, mặc dù chúng ta cứ nói suốt ngày là “phải chọn người tài” và
không nên quá lệ thuộc vào bằng cấp, thế nhưng những quy định về sử dụng, đề bạt
cán bộ của ta thì yếu tố bằng cấp lại được đưa lên hàng đầu.
Thế mới có
câu “phi đại học bất thành nhân” - tạm hiểu là “không có bằng đại học thì không
thể thành người”.
Vì thế,
người ta phải sống chết kiếm được tấm bằng đại học thì mới có điều kiện tồn tại
và phát triển ở các cơ quan nhà nước và kể cả với một số doanh nghiệp tư
nhân.
Nạn sính bằng
cấp cũng xuất phát từ tâm lý muốn “mở mày mở mặt”, muốn khoe con cái thành đạt
với hàng xóm láng giềng. Cha mẹ nghèo rớt mùng tơi nhưng sống chết cũng phải
cho con đi học đại học, mà rồi học xong nhiều người có kiếm được công ăn việc
làm đâu, lại phải tham gia “đội quân shipper” hoặc làm các nghề không cần đến bằng
đại học!
Nạn sính bằng
cấp lại cũng bắt nguồn từ thói háo danh và sĩ diện hão của rất, rất nhiều người
Việt. Không ít người nghĩ đủ mưu, chi đủ tiền để kiếm được tấm bằng đại học,
trên đại học chủ yếu để khoe mẽ, thỏa mãn thói háo danh.
Hiện nay,
đã có tình trạng muốn dự tuyển vào các doanh nghiệp FDI thì người dự tuyển phải
giấu bằng cấp, bởi các doanh nghiệp FDI chọn người biết làm nghề chứ họ không cần
người có bằng đại học. Theo họ, nếu lấy người có bằng cấp vào làm việc thì chế
độ đãi ngộ phải khác, hơn nữa những người có bằng cấp lại hay “tinh tướng”, “lý
sự”... Với doanh nghiệp FDI, họ không cần điều đó, họ chỉ cần lao động có kỹ
năng và biết tuân thủ kỷ luật.
Cũng lâu
nay, chúng ta ngộ nhận rằng, người tốt nghiệp đại học, người có bằng cấp cao là
người có tri thức, có trí tuệ... Thực tế không hẳn như vậy, thậm chí đó là nhận
thức sai lầm!
Nếu như chịu
khó đi học thì sẽ có kiến thức, nhưng có kiến thức chưa chắc đã có tri thức. Có
tri thức chưa chắc đã có trí tuệ, người có trí tuệ phải là người vừa có kiến thức
nhưng đồng thời phải nhìn thấy được chiều sâu của tất cả những điều diễn ra
xung quanh; là người hiểu được sự vật, sự việc, hiểu được sự vận động, phát triển
của đời sống.
Người có
tri thức là người có thể có hiểu biết uyên bác về một vấn đề, có thể phân tích,
trình bày vấn đề ấy một cách khúc chiết và triệt để, nhưng người ấy là người chỉ
“biết” chứ không có “hành” và người ấy đối với vấn đề ấy vẫn có thể bị chi phối,
không được tự tại. Vì thế, đây cũng chỉ là những “con mọt sách”
Nền giáo dục
của chúng ta trong hàng chục năm qua đã biến nhiều học sinh thành những con gà
công nghiệp, “nói như con vẹt” nhưng không hiểu biết gì.
Nền giáo dục
của chúng ta đã quá tham lam khi nhồi nhét vào đầu con trẻ đủ mọi loại kiến thức
và cứ mong muốn là để trẻ em phải “phát triển toàn diện”, nhưng họ không biết rằng,
không thể có chuyện “phát triển toàn diện”. Bởi, mỗi người sinh ra đều có đặc
tính riêng, sở thích riêng, năng khiếu riêng, không ai giống ai. Có học sinh giỏi
toán nhưng kém văn, có học sinh giỏi ngoại ngữ nhưng ngữ pháp tiếng Việt không
nắm chắc. Đây là chuyện bình thường, tiếc rằng chúng ta đã chủ trương đào tạo một
cách quá giáo điều, sáo rỗng và phi thực tế!
Nói như Tổng
Bí thư Tô Lâm thì đúng là việc học tập phải là việc phải làm suốt đời; phải là
“học, học nữa, học mãi”. Nhưng, học mà không đi đôi với hành thì cũng vô ích mà
thôi! Và, trước sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, sự thay đổi của
nền sản xuất thì đòi hỏi cần phải có nhiều người tài là một nhu cầu tất yếu. Chỉ
có những người có tài thực sự mới có thể làm xoay chuyển được tình thế trong bất
cứ lĩnh vực nào.
Chúng ta
có thể “vỗ ngực tự hào” rằng có đội ngũ giáo sư, tiến sĩ hùng hậu, có tỷ lệ người
tốt nghiệp đại học ở mức cao trên thế giới... Nhưng, ít ai dám thừa nhận rằng
trí tuệ, óc sáng tạo của người Việt còn nhiều hạn chế. Bằng chứng là chúng ta
có những công trình nghiên cứu khoa học nào được vinh danh trên thế giới? Có
phát minh nào đóng góp được vào kho tàng tri thức nhân loại?
Theo Tổng
Bí thư Tô Lâm thì hiện nay, “cách mạng khoa học công nghệ đã và đang diễn ra mạnh
mẽ trên quy mô toàn cầu, tạo nên sự biến cách to lớn trong đời sống xã hội, đặt
ra những yêu cầu mới, nhu cầu mới, nhiệm vụ mới, suy nghĩ mới, hành động mới với
mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt đối với cán bộ, đảng viên của hệ thống chính
trị trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhất là tận dụng
tối đa thời cơ, vận hội, đi tắt đón đầu, đưa đất nước vững bước vào kỷ nguyên
phát triển, giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Để thực hiện thắng
lợi yêu cầu, nhiệm vụ, trọng trách trong giai đoạn mới, học tập suốt đời để dám
nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám hy sinh vì lợi ích chung, để
trở thành những người hữu dụng đang là đòi hỏi cấp thiết đối với từng cá nhân,
mỗi công dân, đặc biệt là những cán bộ, nhân viên trong hệ thống chính trị...”.
Để thực hiện
được yêu cầu này, một điều rất quan trọng bây giờ là phải có những thay đổi,
cách nhìn nhận về bằng cấp trong công tác cán bộ, từ tuyển dụng, đào tạo lại,
quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm... Cần phải có những chính sách mới nhằm trọng dụng
và để người tài phát triển và chỉ khi nào, chính sách sử dụng, đề bạt cán bộ của
ta dám thay đổi về chất thì lúc đó, nền giáo dục mới đi vào thực chất và nạn
sính bằng cấp mới có thể được hạn chế.
Nguồn: An Ninh Thế Giới cuối tháng