Ở tuổi 78, tác giả Hồ Duy Hùng ra mắt cuốn sách ‘Gãy cánh điệp viên’ ghi lại những trải nghiệm khó quên trong cuộc đời, được Hội Nhà văn TP.HCM tổ chức tọa đàm vào sáng 5/3.
“Gãy cánh điệp viên” là một cuốn tự truyện của một
nhân vật có hành trình sống xứng đáng để kể lại, xứng đáng được truyền tụng. Chỉ
riêng câu chuyện phi công Hồ Duy Hùng đánh cắp máy bay UH-1 của Không quân Việt
Nam cộng hòa đang đậu bên bờ hồ Xuân Hương, Đà Lạt để bay về hạ cánh an toàn ở
Bến Cát, Bình Dương vào ngày 7/11/1973, đã là một huyền thoại. Báo chí Sài Gòn
và các cơ quan thông tấn quốc tế lúc ấy gọi là “vụ án tản thất quân dụng”, có thể xem như chất liệu vàng ròng đầy đủ yếu tố ly kỳ và gay cấn để làm được một
tác phẩm điện ảnh hấp dẫn.
Được kể bằng giọng điệu chân thành và khiêm nhường,
“Gãy cánh điệp viên” góp phần cho công chúng hôm nay hiểu thêm về miền Nam Việt
Nam giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Phẩm
chất nhân văn của “Gãy cánh điệp viên” thể hiện ở hai góc độ, thứ nhất là sự
xót thương những số phận thường dân chịu đựng tội ác chiến tranh, thứ hai là
nghĩa đồng bào máu đỏ da vàng giữa cuộc giằng co bom đạn vô tình.
Ký ức tuổi ấu thơ của tác giả ở quê nhà Quảng Nam vẫn
ám ảnh hình ảnh ông Cừ làm nghề mổ heo có tài phóng dao. Ông Cừ học phóng dao để
“giết bọn Pháp trả thù cho vợ con mà chưa được thì Pháp đã đi hết”. Khi chứng
kiến lính Mỹ hãm hiếp bé gái 13 tuổi cùng làng, ông Cừ đã phóng dao trừng trị
con quỷ dữ, rồi chấp nhận bị mất mạng.
Ký ức tuổi thanh xuân của tác giả sau khi được đưa
sang Mỹ đào tạo phi công theo tiêu chuẩn “ở trên sự hoàn hảo” và “ở trên cái tốt
nhất” để biên chế vào Không quân Việt Nam Cộng Hòa, là những cảnh tượng ê chề.
Ông không dám bày tỏ sự cảm thông với cô trinh sát người Chăm Chế Ngọc Bích bị
trói giữa sân nắng Phan Rang, Ninh Thuận. Và ông cũng không giấu được sự não nề
lúc nhìn thấy người mẹ ôm cái xác đã thối rữa của con trai mình là lính Việt
Nam Cộng Hòa chết trận ở sân bay dã chiến Củng Sơn, Phú Yên.
Bên cạnh giá trị của những chi tiết, “Gãy cánh điệp
viên” còn lôi cuốn người đọc ở cách viết rất thật. Ngoài mối tình giữa tác giả
với Đàm Bích Thủy ở Phước Long đầu năm 1975, có thể tách ra thành một truyện ngắn
độc lập, “Gãy cánh điệp viên” không cường điệu, không tô vẽ, không thần thánh
hóa bất kỳ cá nhân nào.
Tác giả không chỉ thuật lại lời người anh hàng xóm tên
Kỳ làm du kích vẫn sống sót sau nhiều năm: “Giỏi chi, nhờ tao nhát gan. Mấy đứa
có gan cứ bám sát tụi Mỹ, trước sau gì cũng chết. Còn tao, cũng bám mà xa xa.
Căng quá thì tao chui hầm bí mật”, mà còn phơi bày sự sợ hãi của chính mình trước
cái chết. Lần thứ nhất là cơ hội có thể ám sát Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở cự
ly gần tại phi trường. Lần thứ hai là ý định tự sát cùng chiếc máy bay khi bị
áp giải từ Nha Trang về Sài Gòn.
Tự truyện “Gãy cánh điệp viên” chia sẻ, cẩm nang của
điệp viên có bốn chữ viết tắt, hai chữ L và hai chữ T. Hai chữ L, “lý” và “lì”,
thì nhiều người áp dụng. Hai chữ T là “tẩu” và “tử”, thì chữ “tử” khó hơn. Tác
giả bày tỏ: “Sau hòa bình không nhiều người còn nhớ các chữ này, nhất là chữ T
cuối. Có nhớ thì nhớ chữ T theo nghĩa Tiền, Tình, rồi Tù”.
“Gãy cánh điệp viên” phác thảo chân dung một người Việt
Nam đi qua khói lửa chiến tranh để xây dựng hòa bình. “Gãy cánh điệp viên” chắc
chắn được độc giả nhiều thế hệ nghiền ngẫm. Vì vậy, có những khiếm
khuyết nho nhỏ đang tồn tại trong cuốn sách, cần được chỉnh sửa khi tái bản.
Về tính thuyết phục của văn bản. Với một điệp viên được
cài cắm trong lòng địch, thì bị bắt phải ghi rõ ràng ngày tháng năm, không thể
đại khái “Tôi bị địch bắt ở Nha Trang khi đang là phi công thuộc Phi đoàn 215,
Không đoàn 62 Sư đoàn 2, Không quân Việt Nam Cộng Hòa”. Bởi lẽ, khi một điệp
viên bị bắt là khoảnh khắc định mệnh của một cuộc đời, khoảnh khắc định mệnh của
một đường dây, khoảnh khắc định mệnh của một tổ chức.
Về tính xác thực của tài liệu. Những chứng từ quan trọng
như “Giấy giải ngũ” hay “Quyết định sa thải” không thể sao chụp để in vào cuốn sách chỉ để mang tính minh họa. Một số nội dung cần chuyển tải mạch lạc, vì độ lùi thời
gian và kiểu chữ đánh máy đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, hoàn toàn không dễ
đọc. Chẳng hạn, phụ chú về quyết định sa thải của Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng
Hòa đối với thiếu úy Hồ Duy Hùng vào năm 1971, với hai lý do “Có nhiều thân nhân hoạt động cho Cộng sản”
và “Có tư tưởng thiên Cộng, ca ngợi chiến tích của Cộng sản, hô hào ý chí đấu
tranh chống ngoại xâm theo đường hướng Cộng sản”.
TUY HÒA