Từ quần áo là vỏ cây, da động vật chuyển sang vải vóc là một bước tiến bộ mang tính bước ngoặt của văn minh nhân loại. Ngoài chức năng bảo vệ cơ thể, quần áo mang chức năng thẩm mỹ. Người Việt có tục ngữ sâu sắc: “Quen sợ dạ, lạ sợ áo quần”. Không chỉ là hình thức bên ngoài, quần áo còn nói bao điều bên trong, về địa vị, thói quen, sở thích, tâm tính…
Cho đến nay, loài người vẫn là động vật duy nhất có tập
quán che phủ bản thân bằng vải vóc. Theo nhiều nghiên cứu, vải vóc có từ năm
2500 trước Công nguyên, đầu tiên ở Trung Quốc rồi lan rộng ra toàn thế giới vào
năm 1000 trước Công nguyên. Vào thời Ai Cập cổ đại, vải lanh được coi là một
trong những loại vải quý giá nhất, làm quần áo, khăn mền, vải bọc, thậm chí là
băng bó y tế.
Người Trung Quốc phát minh ra kỹ thuật dệt lụa được
coi là một trong những loại vải đẹp nhất và đắt nhất thế giới, được sử dụng để
làm quần áo, trang phục hoàng gia, đồ nội thất, có thời còn là đơn vị tiền tệ.
Người Ấn Độ phát minh ra kỹ thuật dệt bông rất sớm để tạo ra thứ vải bông Ấn Độ
nổi tiếng với độ mềm mại, thoáng khí, được sử dụng để làm quần áo, khăn mền, vải
bọc, đồ chơi...
Vào thế kỷ 12, nghề dệt vải lanh bắt đầu phát triển ở
Bỉ. Đến thế kỷ 13, nghề dệt vải len bắt đầu phát triển ở Anh. Cách mạng Công
nghiệp thế kỷ 18, 19 thay đổi hoàn toàn cách sản xuất vải. Máy móc và quy trình
sản xuất công nghiệp làm cho việc sản xuất vải rất nhanh chóng. Vào năm 1733,
John Kay phát minh ra máy kéo sợi, năng suất tăng lên 8 lần. Năm 1764, James
Hargreaves phát minh máy kéo sợi đời mới (Water Frame), năng suất tăng lên 120
lần. Vào năm 1785, máy dệt khung cửi vận hành bằng sức nước thay thế dệt thủ
công...
Vì công việc dệt gắn liền với đời sống con người nên
hình tượng cái khung cửi có ở mọi nền văn hóa, có ở nhiều câu chuyện hay, thú vị,
sâu đậm nhất trong văn học. Cả thế giới biết câu chuyện “Bộ quần áo mới của
Hoàng đế” của H.C.Andersen (1805-1875) người Đan Mạch. Kể rằng vị Hoàng đế nọ rất
thích mặc quần áo đẹp chưng diện. Có hai tên lừa đảo xưng thợ dệt nói biết dệt
một thứ vải rất đẹp và quý giá chưa bao giờ có, nhưng với kẻ ngu xuẩn, vải sẽ
trở nên vô hình.
Hoàng đế cho chúng rất nhiều tiền và cung cấp tơ lụa,
khung dệt… Nhiều quan cận thần rồi cả Hoàng đế đến kiểm tra, vì không muốn mình
bị coi là “ngu xuẩn” nên ai cũng khen vải dệt “vô cùng đẹp”. Đến khi Hoàng đế
“mặc” ra phố, tất cả đều không muốn mình “ngu xuẩn” nên đồng thanh “Hoàng đế vạn
tuế” và tấm tắc khen “bộ quần áo mới”…
Nhưng một đứa trẻ lên ba cười như nắc nẻ rồi hô toáng
lên: “Hoàng đế cởi truồng!”. Thế là cả vương quốc ấy có mỗi một người nhìn ra sự
thật... Một tiếng cười vui mà sâu cay, cười vào cả một xã hội dốt nát, mê muội,
ảo giác, giả dối, lừa nhau, lừa cả mình… Lấy điểm tựa là cái khung cửi rồi dệt
bằng ngôn từ tiếng cười tạo ra tấm vải câu chuyện hài hước lóng lánh màu sắc ý
nghĩa mỉa mai. Cười vui mà thấm thía đau cho con người…
Người Nhật quý vải vóc cũng như quý chim hạc đến mức
trong hệ thống truyền thuyết có motip chim hạc dệt vải. Xin dẫn truyện
"Chim hạc báo ân", kể chàng Kinzo đem hết số tiền đã có chuộc chim hạc
đang bị người khác bắt giữ, rồi thả chim đi. Ngày nọ, một cô gái xinh đẹp tìm đến
xin làm vợ Kinzo. Vợ anh có tài dệt vải. Một hôm vợ nói sẽ dệt tấm vải đẹp nhất
tặng chồng, nhưng trong lúc dệt chồng không được gặp. Thế là ngày ngày đêm đêm
chỉ có âm thanh của khung cửi vang lên.
Tò mò, Kinzo nhìn vào phòng dệt, thấy con chim hạc nhổ
từng chiếc lông trên thân mình dệt thành tấm vải vô cùng đẹp đẽ, tráng lệ… Thì
ra người vợ chính là chim hạc anh đã cứu. Câu chuyện cho thấy một quan niệm
nhân văn cao cả quý trọng con người hơn mọi tiền bạc; tình nghĩa vợ chồng
thiêng liêng vô ngần, vì nhau mà sẵn sàng đem thân thể, thịt da mình để “sưởi ấm”
cho nhau.
Truyền thuyết “Ngưu Lang - Chức Nữ” soi sáng cả bầu trời
văn hóa phương Đông, chiếu đến vùng nào, chịu khúc xạ của tập quán, tính cách
mà nhân vật ánh lên những ý nghĩa khác nhau. “Phiên bản” Việt Nam kể Ngưu Lang
làm việc chăn trâu, Chức Nữ làm việc dệt vải. Yêu nhau nên cả hai bê trễ công
việc, Ngọc Hoàng bèn phạt họ, bắt người đầu sông, kẻ cuối sông...
Truyện cổ tích “Tấm Cám” rõ bản sắc Việt hơn, có chi
tiết kể lần tái sinh thứ hai, Tấm hóa thành cây xoan đào rất đẹp đến mức nhà
vua thường mắc võng nằm nghỉ trưa. Mẹ con Cám bèn chặt cây làm khung cửi. Mỗi
khi Cám ngồi vào dệt vải, khung cửi lại kêu: “Kẽo cà kẽo kẹt, lấy tranh chồng
chị, chị khoét mắt ra…”. Điều này nói lên mấy ý: trước đây dân ta thường làm
khung cửi bằng gỗ xoan đào (khác Ấn Độ, qua các câu chuyện cổ, khung cửi thường
được làm bằng gỗ cây dương liễu hoặc mạch sồi). Dệt vải rất phổ biến ở cả nơi
cao môn sang trọng (triều đình) và thường dân.
Những câu ca dao làm rõ hơn điều này: “Ai về Hoằng Hóa mà coi/ Chợ Quăng một tháng ba mươi phiên chiều/ Trai mỹ miều bút nghiên đèn sách/ Gái thanh tân chợ búa cửi canh/ Trai thì nhất bảng đề danh/ Gái thời dệt cửi vừa lanh vừa tài”. Cô gái trong câu sau đang ở độ “cập kê”, đã có “ong bay bướm lượn”: “Thẹn thùng đường cửi đi về/ Chân ngừng bàn đạp, tay e thoi chuyền”. Mẫu vợ chồng hạnh phúc ngày xưa là: “Em thời canh cửi trong nhà/ Nuôi anh đi học đăng khoa bảng vàng/ Trước là vinh hiển tổ đường/ Bõ công đèn sách, lưu phương đời đời”...
Tả cảnh dệt cửi cụ thể, sinh động, chắc không ai vượt
qua thiên tài Hồ Xuân Hương: “Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau/ Con còm ấp máy
suốt đêm thâu/ Hai chân đạp xuống năng năng nhắc/ Một suốt đâm ngang thích
thích mau/ Rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả/ Ngắn dài khuôn khổ vẫn như nhau/ Cô nào
muốn tốt ngâm cho kỹ/ Chờ đến ba thu mới dãi màu” (Dệt cửi đêm).
Xin giới thiệu tác phẩm dân gian "Bần nữ
thán", ra đời khoảng thế kỷ XVIII, thời Nguyễn. Dài 216 câu theo thể song
thất lục bát đi theo dòng tự tình tâm trạng, đúng như tên gọi, là lời ta thán của
người con gái trách số phận vì nghèo túng, thiệt thòi không lấy được người chồng
sang trọng như ý. Từng được dùng làm sách giáo khoa, được dịch sang tiếng Pháp
(dịch giả Phạm Xuân Độ) in ở nhà xuất bản Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ thư xã)
năm 1945.
Lời thơ khá hiện đại, trong sáng: “Ở ăn nề nếp sau
xưa/ Dám sai phận gái mà thưa phép nhà/ Việc canh cửi, tay đưa chân dận/ Đường
dệt thêu bướm lượn óng đôi/ So xem quốc sắc, nữ tài/ Đã trong gia huấn, lại
ngoài nam phong”. Đến đầu thế kỷ XX, “chân quê” trong thơ Nguyễn Bính vẫn là “cảnh
cũ người xưa”: “Em là con gái trong khung cửi/ Dệt lụa quanh năm với mẹ già”
(Mưa xuân)…
Là dụng cụ dệt vải, khung cửi cổ truyền hình hộp chữ
nhật với 4 cột trụ cùng các thanh gỗ ngang dọc tạo thành khung đóng vai trò giữ
sợi mắc (sợi dọc) thật căng để luồn sợi mành (sợi ngang). Ngoài ra còn trục
(thanh gỗ tròn ngang để cuốn vải); phưm (hình chữ nhật để chia đều các sợi vải
dọc và dập chặt các sợi vải ngang); go (hai lá go được làm bằng hai thanh tre
nhỏ). Bàn đạp (hai thanh gỗ để đạp chân); thanh ngáng sợi (thanh gỗ to để ngang
giữa 2 làn sợi dọc để đưa thoi). Khung cửi làm bằng gỗ tốt, không nứt nẻ, nhẹ,
chắc, bền.
Hầu hết các dân tộc ở nước ta đều có nghề dệt vải
nhưng hôm nay, qua con đường du lịch, có tiếng vang với thế giới thì nghề dệt
thổ cẩm của người Pà Thẻn (Hà Giang) được chú ý. Trên thực tế, các dự án bảo tồn
nghề dệt này đang được triển khai góp phần tạo ra sản phẩm du lịch hấp dẫn. Du
khách ưa chuộng mảnh thổ cẩm được dệt từ những sợi tơ mỏng, chế tác từ cây cỏ tự
nhiên. Từ dệt vải, thêu hoa, ghép vải… rồi kết thành bộ trang phục truyền thống,
đồng bào mất cả năm trời.
Nước ta có nhiều làng nghề dệt nổi tiếng với “The La,
lĩnh Bưởi, chồi Phùng/ Lụa vân Vạn Phúc, nhiễu vùng Mỗ Bôn” (ca dao). Có lịch sử
truyền thống khoảng 1.200 năm, làng Vạn Phúc thờ vị tổ nghề - bà Ả Lã Đê Nương,
cháu vua Hùng thứ 16. Hàng năm Giỗ Tổ nghề vào ngày 25 tháng Chạp âm lịch. Lụa
vân Vạn Phúc được khách nước ngoài rất ưa chuộng, có đặc điểm hoa văn nổi vân
trên mặt lụa mượt, được làm từ tơ tằm tự nhiên, rất đẹp khi ra nắng, ấm vào mùa
đông, mát vào mùa hè. Có một lý do khung dệt máy nhưng vẫn sử dụng con thoi
truyền thống nên sản xuất nhanh mà chất lượng đảm bảo tốt. Xin mời bạn đến tham
quan và mua thử vuông lụa vân!
NGUYỄN THANH TÚ
Nguồn: Văn Nghệ Công An