MỘT ĐÔ THỊ, HAI ỨNG XỬ
HOÀI NAM
Ai từng đọc truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch
Lam, ắt phải thừa nhận rằng tác giả họ Nguyễn Tường ở Cẩm Giàng, Hải Dương này
là đệ nhất hạng trong việc “chơi” ánh sáng. Những cái đốm sáng liu riu lờ mờ buồn
buồn trong đêm ga xép phố huyện tưởng cứ thế kéo dài mãi, chợt ào một cái, đoàn
tàu về Hà Nội chạy qua, sáng rực rỡ, sáng lấp lánh, sáng lóa mắt, đột ngột như
một vệt sao băng.
Ánh sáng ấy mất hút, để lại trong lòng chị em Liên -
hai nhân vật trong truyện - sự nuối tiếc ngậm ngùi khôn xiết. Ấy là vì chúng
“thèm” Hà Nội - nhớ rằng đây là Hà Nội trước năm 1945, thủ phủ của Liên bang
Đông Dương thuộc Pháp - đô thị lớn, biểu tượng của văn minh hiện đại, cái vẫy gọi
sự thay đổi cuộc đời với những người dân quê và dân tỉnh lẻ ở xứ thuộc địa lúc
bấy giờ.
1. Có thể nói, trong tâm thức của nhiều văn nghệ sĩ hồi
ấy đã xác lập một đối lập, một chia cắt giữa Hà Nội, thành phố của văn minh,
ánh sáng, và ngoài Hà Nội - chủ yếu là nông thôn - những nơi chốn trì trệ, tăm
tối. Với tâm thức này, “ông vua phóng sự đất Bắc” Vũ Trọng Phụng đã dành cả một
chương trong “Cơm thầy cơm cô” viết về đô thị Hà Nội, trong đó có đoạn: “Có lẽ
vào những đêm không trăng không sao, người nhà quê vùng Nam Định, Thái Bình, Hải
Dương, Bắc Ninh, Sơn Tây, Hòa Bình mỗi khi ra sân, quay về một phía trời, đã thấy
có một vùng hào quang sáng rực. Đó là Hà Nội nơi nghìn năm văn vật, dân giàu tiền
nhiều của lắm, dễ kiếm sinh nhai”.
Ở phía bên kia đất nước, sau năm 1954 lại rất phổ biến bài tân cổ “Lan và Điệp”
của Mạc Phong Linh và Mai Thiết Lĩnh (một bút danh khác của nhóm Lê Minh Bằng,
tức các nhạc sĩ Lê Dinh, Minh Kỳ và Anh Bằng).
Phần vọng cổ trong bài có đoạn lời của người con gái:
“Điệp ơi, mai anh lên chốn thành đô có nhà xe rực rỡ/ Xin đừng quên bến đò
ngang con sông nhỏ chốn quê xưa em vò võ mong chờ/ Xin đừng quên người yêu bé
nhỏ thật thà/ Chốn đô thành đầy xa hoa cám dỗ/ Điệp đừng để lòng sa ngã bê tha/
Đây chút tiền mọn từ lâu em dành dụm, trao cho anh làm lộ phí đường xa/ Mai mốt
đây khi danh phận rỡ ràng, xin chớ phụ phàng tình xưa duyên cũ... ơ...”.
Chốn thành đô trong bài tân cổ này có thể hiểu là Sài
Gòn, “Hòn ngọc Viễn Đông” lúc ấy, nơi mà trong sự hình dung của người dân quê
(miền Tây chăng?) là rất giàu có đẹp đẽ, song cũng đầy sức mạnh làm tha hóa
nhân cách con người. Và, đương nhiên, theo cách nào đó, nó đe dọa và khiến họ e
sợ.
Tôi chỉ lẩy ra vài trong vô vàn ví dụ để nói đến hai
kiểu ứng xử nghịch nhau của con người, con người Việt Nam, trước một thực thể,
là đô thị. Hai kiểu ứng xử này xuất hiện gần như cùng lúc với sự hình thành của
đô thị, và chúng cứ song song tồn tại trong suốt trường kỳ lịch sử, thậm chí tồn
tại cho đến tận ngày hôm nay.
Một mặt, chúng ta chứng kiến đô thị hóa như một quá
trình không thể đảo ngược, không thể dừng lại, nếu không muốn nói là ngày càng
phát triển với gia tốc cực cao. Các đô thị lớn như TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng
luôn hút người từ khắp nơi trên cả nước, chủ yếu là các làng quê nông thôn, về
và vào với nó, phục vụ cho nhu cầu phát triển của nó, mà cũng chính là đáp ứng
nhu cầu sinh tồn của người tứ xứ. Xét cho cùng thì, như thực tế của nông thôn
hiện nay cho thấy, ở quê thì nhiều người biết làm gì mà sống, quay ra quay vào
mãi cũng mòn mỏi một kiếp người. Trong khi đó, lên thành phố, nếu học hành tử tế
và gặp chút cơ may thì cơ may có nhà cửa và công ăn việc làm ổn định. Bằng
không, làm những việc bán sức lao động cơ bắp ở thành phố, chịu khó tằn tiện,
dành dụm thì rồi cũng có được ít dấn vốn để mà đổi nghề.
Mà, không chỉ là lý do duy kinh tế thôi đâu. Ở đây, phần
nào đó, còn có cả những lý do tinh thần, như sự tự do cá nhân chẳng hạn. Nên nhớ
rằng, ở nông thôn, với cơ chế làng - họ và sự ràng buộc lẫn nhau theo kiểu, nói
là quan tâm cũng đúng mà bảo rằng tọc mạch thì cũng chẳng sai, “hàng xóm tối lửa
tắt đèn”, thì chẳng ai giữ được phần bí mật nào của/cho riêng mình cả. Mọi thứ
thuộc về cá nhân đều bị “phơi” ra bằng hết. Trong khi đó, ở đô thị thì khác hẳn.
Ngay từ trước năm 1945, trong “Sống mòn”, một tác phẩm
hư cấu chứ không phải một nghiên cứu khoa học, Nam Cao vô tình có một phân tích
xuất sắc về vấn đề này: “Chúng tính ngay đến chuyện vợ chồng. Mô thú thật không
có tiền để cưới. Thì Hà cũng chẳng cần gì sự ấy. Nó cũng nghèo. Mẹ con vốn
phiêu bạt đến chỗ này kiếm ăn. Con đi làm ở sở ương cây, mỗi tháng sáu đồng. Mẹ
đi xe cát, được mỗi ngày vài ba hào chỉ. Ở đây không còn phải như ở nhà quê. Chẳng
còn ai biết nguồn gốc chúng ra sao. Chúng không còn sợ mang tiếng với ai. Ai đếm
xỉa gì đến chúng?”.
Hơn nửa thế kỷ sau, bằng những trải nghiệm và chiêm
nghiệm cá nhân, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân sẽ xác nhận lần nữa cái ưu thắng của
việc “ở thành phố” so với “ở nhà quê” mà Nam Cao từng đề cập: “Bảo vệ tự do cá
nhân và bí mật riêng tư thì không gian đô thị tỏ ra tốt hơn không gian làng xã,
và ngay giữa các đô thị thì đô thị lớn tốt hơn đô thị nhỏ” (Bài “Mênh mông chật
chội, chật chội mênh mông”, in trong sách “Mênh mông chật chội”, 2009).
Ấy là còn chưa kể, người nhập cư - nhập cư một đô thị
như Hà Nội chẳng hạn - đến một thời điểm, một quãng năm tháng nào đấy đủ lâu, sẽ
trở nên thân thiết, thương yêu đô thị, vừa tự xem mình như đứa con/công dân
chính thức của nó, lại vừa giữ được vị thế của “kẻ đứng ngoài tích cực” mà nhìn
vào nó, để được quan sát và chiêm nghiệm không ít điều thú vị về lối sống, tập
tục, văn hóa của một vùng đất. Tôi xin lấy ví dụ trường hợp nhà văn Đỗ Bích
Thúy. Gốc Nam Định, nhưng sinh ra và lớn lên ở Hà Giang, gọi chị là “người miền
núi” cũng được.
25 tuổi, Đỗ Bích Thúy mới thực sự về Hà Nội sống và
làm việc, để rồi sau đó khoảng hơn 10 năm, khi đã nổi danh là một trong những
tác giả chuyên viết về miền núi của văn chương Việt Nam đương đại, chị mới hoàn
thành một truyện dài, gọi là tiểu thuyết ngắn cũng được, lấy tên “Cửa hiệu giặt
là”, vừa hồi tưởng cuộc sống chung với đại gia đình nhà chồng nơi phố cũ Hà Nội,
vừa trải lòng với thành phố nghìn năm tuổi ở những khía cạnh đời thường xô bồ
mà tinh tế, nhốn nháo mà nền nã của nó, và đặc biệt nhất là sự ấm áp tình người
giữa những người “hàng phố” với nhau. (Tác phẩm đặc sắc này đã được Hội Liên hiệp
Văn học nghệ thuật Hà Nội trao Giải thưởng Văn học nghệ thuật Thủ đô năm 2014.
Một ghi nhận xứng đáng của Hà Nội với người đã góp công làm dày dặn, sáng đẹp
thêm cho đời sống tinh thần của đô thị cổ).
2. Tuy nhiên, mặt khác, chúng ta cũng vẫn luôn chứng
kiến một hướng đối nghịch với sự nhập cư và niềm hân hoan đô thị. “Em ơi đô
thành giờ đây anh sống không quen/ Đưa nhau lên tàu về quê ta sống vui hơn...”,
nhạc miền Nam Việt Nam trước năm 1975 đã có những tiếng reo vui đòi về quê như
thế này, dù người soạn lời ca khúc không nói rõ rằng “không quen” là không quen
cái gì ở thành phố và tại sao lại không quen. Trước đó, trở lại với Hà Nội hồi
đầu thế kỷ XX, ta sẽ bắt gặp nỗi “sầu đô thị” và niềm “nhớ nông thôn” trong văn
chương Tự lực văn đoàn, như tiểu thuyết “Đôi bạn” của Nhất Linh, chẳng hạn:
“Dũng nhìn lên mặt trăng cao mà tròn khuất sau lá cây. Ở thành phố nên Dũng thấy
mặt trăng có vẻ buồn bã hình như đương nhớ những quãng rộng ở các vùng quê xa
xôi, nhớ những con đường vắng gió thổi cát bay lên trắng mờ mờ như làn sương,
nhớ những con đom đóm bay qua ao bèo, lúc tắt lúc sáng như những ngôi sao lạc
biết thổn thức”.
Thế nhưng, theo sự đọc và thiển ý của tôi, để có thể
phát biểu đầy đủ về nỗi sầu, sự chán ghét, niềm thất vọng với đời sống đô thị của
con người Việt Nam hiện đại và đương đại, phải chờ đến tập tiểu luận và tản văn
“Có một kẻ rời bỏ thành phố” của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, đương kim Chủ tịch
Hội Nhà văn Việt Nam. Tập tiểu luận và tản văn này in lần đầu cách đây trên dưới
10 năm, trong đó phơi bày bằng hết các căn bệnh đô thị, bệnh trên thân xác đô
thị và bệnh trong đời sống tinh thần của mỗi con người đô thị. Các căn bệnh ấy
có thể chữa khỏi hay không, tác giả không nói, ông chỉ lẳng lặng... rời bỏ
thành phố.
Còn tôi thì cứ lẩn thẩn nghĩ và tự hỏi: trời đất này
mà rời bỏ thành phố thì còn biết đi đâu, khi rốt cuộc, đâu đâu cũng thấy toàn
những làng đã hóa phố?
Nguồn: An Ninh Thế Giới cuối tháng