Trong nhiều
trường hợp, gọi là thơ lại chỉ thuần là những văn bản mang ý hướng tuyên truyền
rõ rệt, đơn nghĩa, thể hiện một “năng lực huy động tiếng Việt” khá nghèo nàn và
còn xa mới có thể nói được gì đó về “nghệ thuật ngôn từ” của nó.
Phiếm luận
về thơ và nhà thơ
HOÀI NAM
Marcel
Reich Ranicki (1920 – 2013), nhà phê bình văn học người Đức gốc Ba Lan, người
được ca ngợi là “Giáo hoàng của văn chương Đức”, sinh thời từng tỏ một thái độ
đầy cảnh giác với thơ. Ông nhận định rằng, nói chung, thơ là thứ tráo trở nhất
trong các thể loại của văn chương. Nghĩa là, thơ tráo trở hơn truyện ngắn, tráo
trở hơn tiểu thuyết, tráo trở hơn bi kịch và hài kịch, tráo trở hơn các loại ký
và tiểu luận. Tráo trở hơn tất thảy.
Sự tráo
trở của thơ
Ranicki
không nói rõ sự tráo trở ở đây mang nghĩa cụ thể như thế nào? Và tại sao lại là
thơ chứ không phải bất kỳ thể loại nào khác? Nhưng xét ở vị trí hành nghề của
ông, một nhà phê bình văn học, hiểu đơn giản là người tiếp nhận và diễn giải
các văn bản nghệ thuật ngôn từ, thì sự tráo trở mà Ranicki đề cập, có thể là bởi
cái phẩm tính mông lung hoặc trơn tuột, khó nắm bắt, khó định dạng và định giá
của các tác phẩm được gọi là thơ. Thơ giống như vốc cát trong bàn tay nhà phê
bình, phần giữ lại được thì ít, phần tuột ra khỏi các kẽ tay thì nhiều. Hoặc giả
nó như bóng ma, tưởng đã tóm được nó ở đây, thì sau đó nó lại xuất hiện ở kia,
với một hình thù khác, và đang lớn tiếng cười nhạo những nỗ lực trước đó của
nhà phê bình.
Và nếu vậy,
chắc hẳn nhiều nhà phê bình sẽ chia sẻ được với thái độ của Marcel Reich
Ranicki về sự tráo trở của thơ. Thật ra, phê bình thơ là một công việc cực kỳ
xương xẩu, bất kể đó là một tập thơ hoặc một bài thơ. Tất cả đều hiện lên trên
bề mặt câu chữ, nhưng dường như vẫn có một “cái gì đó” ở bài thơ hoặc tập thơ cứ
thoát ra ngoài, lẩn đi, cưỡng chống mọi cố gắng truy đuổi của nhà phê bình. Ấy
là chưa kể, các nhà phê bình, bằng hướng tiếp cận, công cụ, quan điểm và cá
tính phê bình khác nhau, lại đọc thơ theo các cách khác nhau và có thể cho ra
những kết quả cũng rất khác nhau.
Lịch sử của
việc đọc thơ không vần của Nguyễn Đình Thi, ở thời điểm năm 1948, trong Hội nghị
văn nghệ Việt Bắc, và lịch sử của việc đọc thơ Trần Dần, Lê Đạt, Văn Cao trong
những năm cuối thập niên 1950, nếu so với sau này, thì quả là “một trời một vực”.
Trước, chúng là thứ bí hiểm tắc tỵ, chỉ đáng vứt đi. Sau, chúng là những đặc phẩm
thơ được tắm trong ánh sáng của chủ nghĩa hiện đại, rất hiện đại và đầy tinh thần
khai mở.
Nhưng những
ví dụ mà tôi đưa ra để nói về sự tráo trở của thơ, oái oăm thay, lại là thơ của
những “đấng, bậc” đích thực trên thi đàn Việt Nam thế kỷ XX. Dù có cố tình vùi
dập thơ của họ, vì những lý do này hay khác, hoặc đơn giản chỉ là thấy không hợp,
không thích, thì người ta vẫn cứ phải “kiềng” họ, thậm chí vẫn ngấm ngầm công
nhận họ là những tài năng. Cho nên, trong trường hợp này, cái gọi là sự tráo trở
của thơ thực chất lại là sự tráo trở của những người đọc thơ.
Thật ra gọi
nó là thơ hay là gì đấy không phải thơ không quan trọng. Miễn nó phải là sản phẩm
của nghệ thuật ngôn từ, ít nhất ở mức “sạch nước cản”. Nhưng trong nhiều trường
hợp, gọi là thơ lại chỉ thuần là những văn bản mang ý hướng tuyên truyền rõ rệt,
đơn nghĩa, thể hiện một “năng lực huy động tiếng Việt” khá nghèo nàn và còn xa
mới có thể nói được gì đó về “nghệ thuật ngôn từ” của nó. Cũng chẳng sao bởi
không ai cấm ai cái quyền được làm thơ, cũng chẳng ai bắt buộc mỗi người làm
thơ dứt khoát phải trở thành một “thi sỹ của non sông”. Ai thích làm thơ thì cứ
việc làm thơ, như một sự bộc bạch với chính mình. Nhưng cái mà người ta, tôi muốn
nói đến các tờ báo có trang văn hóa văn nghệ, ít nhất cũng phải đưa lên thành
nguyên tắc: không in thơ chưa “sạch nước cản”, không nương tay, và càng không
tìm mọi cách chiều nịnh để biến cát thành vàng.
Tất nhiên
là khó. Càng khó hơn cho các biên tập viên và cho chính ông Tổng biên tập tờ
báo một khi tác giả những bài (gọi là) thơ ấy có lời gửi gắm. Nhưng vẫn buộc phải
tìm cách mà thực hiện nguyên tắc thôi. Vì nó là đạo đức báo chí và là lương tri
cần cho thơ. Nếu không, sự tráo trở của thơ chưa thấy đâu thì đã thấy sự tráo
trở của những người đăng thơ.
Nhà thơ
thì chơi với ai?
Nhà văn
Nguyễn Việt Hà từng xuất bản một tập tản văn có tên “Nhà văn thì chơi với ai?”.
Đọc đã lâu nên tôi không nhớ trong sách ấy Nguyễn Việt Hà trả lời câu hỏi chủ đề
này như thế nào? Nhưng từ việc chợt nhớ ra nó, tôi lại có một câu hỏi cho riêng
mình: “Nhà thơ thì chơi với ai?”. Từ sự quan sát, ghi nhận đời sống văn chương
cũng như từ sự đọc cho riêng mình, tôi có thể có câu trả lời ngay lập tức mà
không sợ sai: đã/ hễ nhà thơ thì chơi với ai cũng được, bất kể.
Nhà thơ
thì đương nhiên chơi với nhà thơ, và với nhà văn, nếu chúng ta vẫn muốn phân biệt
“thơ” và “văn” như hai phương thức biểu hiện khác nhau của sáng tạo văn chương.
Khác nhau nhưng vẫn chung nhau một kiểu lời nói “quái gở” (như học giả Phan Ngọc
từng nhận định. Đại khái là vì lời nói trong các tác phẩm thơ, văn khác với lời
nói ngoài đời, ngoài đời chẳng mấy ai ăn nói đối đáp theo những cấu trúc ngôn
ngữ “bị vặn xoắn” như vậy cả). Từ cái sự “chơi với nhau” của nhà thơ với nhà
thơ hoặc của nhà thơ với nhà văn, chơi đến mức hiểu thấu lòng nhau, có thể khóc
hoặc cười thay cho nhau mặc sự chênh lệch tuổi tác, nhiều tình bạn văn chương
đã được khắc tạc vào thiên thu và trở thành huyền thoại. Như khi Trần Huyền
Trân viết bài “Uống rượu với Tản Đà”: “Cụ hâm rượu nữa đi thôi/ Be này chừng sắp
cạn rồi còn đâu/ Rồi lên ta uống với nhau/ Rót đau lòng ấy vào đau lòng này...”.
Nhà thơ
cũng có thể chơi với các nghệ sĩ thuộc giới âm nhạc, các nghệ sĩ sân khấu, các
nghệ sỹ điện ảnh, các họa sĩ, các điêu khắc gia, các kiến trúc sư, các nghệ sĩ
nhiếp ảnh v.v... tóm lại là những người sáng tạo nghệ thuật nói chung, kiểu người
cả đời bị chứng “săn bắt con nghệ thuật” nó hành hạ, đôi khi là bị hành hạ đến
mức thê thảm. Có lẽ, đó là do cái lý “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”.
Khi con chim hót, thậm chí khi con chim chẳng cần hót, thì những tần số âm
thanh cất tiếng và không cất tiếng đã giao nhau như một tín hiệu gọi bầy.
Nhà thơ
cũng có thể chơi với tất cả những ai ngoài “nghệ giới”, tức là tất cả nhân quần
xã hội. Như nhà thơ Tố Hữu đã náo nức tuyên ngôn trong bài thơ “Từ ấy”: “Tôi đã
là con của vạn nhà/ Là em của vạn kiếp phôi pha/ Là anh của vạn đầu em nhỏ/
Không áo cơm, cù bất cù bơ...”.
Thấp xuống
nữa, đến cực hạn của độ thấp, nhà thơ có thể chơi với kỹ nữ/ gái làng chơi. Một
ví dụ khá ít người biết, là Liễu Vĩnh, nhà thơ Trung Quốc thời Bắc Tống. Liễu
Vĩnh đỗ tiến sĩ, làm quan một thời gian ngắn thì bỏ quan trường vào sống trong…
lầu xanh, ăn cơm kỹ nữ để viết những từ khúc đưa tên tuổi ông nhập hạng đại từ
gia của văn chương Trung Quốc cổ điển. Lúc Liễu Vĩnh mất, các kỹ nữ còn góp tiền
để chôn cất và làm lễ truy điệu cho ông. Nói chung, cái giao tình giữa nhà thơ
với kỹ nữ là một sự thực rất phổ biến trong đời. Còn trong văn chương tự cổ chí
kim, như một sự biểu hiện và được biểu hiện, nó đáng để người ta bỏ sức ra
nghiên cứu, làm vài chục luận văn tiến sỹ cũng chưa hết việc.
Còn cao
hơn nữa, đến cực hạn của độ cao, nhà thơ có thể chơi với nhà giàu và quan chức.
Sẽ là điều bình thường, bởi thực tế là có không ít nhà giàu hoặc quan chức cũng
chính là những thi sĩ đích thực, như Hàn Dũ, một trong “bát đại gia” thời Đường
Tống của Trung Quốc, hay như Alecxandre Pushkin, mặt trời của thi ca Nga. Nhưng
sẽ là điều không bình thường nữa, nếu nhà giàu chỉ là nhà giàu và quan chức chỉ
là quan chức. Khi ấy, việc nhà thơ có giao tình thân hữu với họ - nhà giàu và
quan chức - rất dễ bị người đời xem là biểu hiện của một sự kém cỏi về nhân
cách: thói nịnh bợ hoặc tính vụ lợi, hoặc cả hai. Không phải là không có những
chuyện này, cũng như ở chiều ngược lại, không phải là không có nhiều nhà giàu
và quan chức chơi với nhà thơ chỉ để tỏ ra có tinh thần “yêu văn nghệ” mà thôi,
không hơn.
Tuy nhiên
cần phải kể đến một thực tế là người ta có cả trăm lý do để chơi với nhau một
cách thành thực, thành bạn tâm giao của nhau, ngoài những lý do thơ, nghệ thuật,
tiền bạc và quyền lực. Nhưng mấy ai để tâm khi đang trong cơn say xỉ vả? “Đôi
tay nhân gian chưa từng độ lượng”, lời bài hát của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn dường
như là một sự thấm tận đáy nỗi đời cay nghiệt...
Nguồn: An Ninh Thế Giới cuối tháng