Năm 1896,
tỉnh đường đóng ở bên cạnh cầu Đơ cho nên người Pháp đặt tên cho vùng đất còn lại
của tỉnh Hà Nội xưa là tỉnh Cầu Đơ! Sau này (năm 1904) quan Tổng đốc cai trị tỉnh
Cầu Đơ là người có học mới xin đổi lại là tỉnh Hà Đông!
TÊN TỈNH Ở TA, XƯA VÀ NAY
VÕ HỒNG PHÚC
Ngồi rỗi lật
xem lại Đại Nam nhất thống chí và Đại Nam nhất thống toàn đồ mới thấy nước Nam
ta thời vua Minh Mạng rộng lớn thật. Đất nước rộng lớn, để đảm bảo phát triển
thì phải có chính sách quản trị tốt nhất. Muốn quản trị tốt nhất thì phải có nền
hành chính tốt nhất. Vua Minh Mạng đã thực hiện công cuộc cải cách hành chính
năm 1831. Người đời sau đánh giá đó là một trong hai cuộc cải cách hành chính tốt
nhất trong lịch sử Việt Nam. Cuộc cải cách lần thứ nhất là của vua Lê Thánh
Tông năm 1466.
Trong cải
cách, sau việc sắp xếp tổ chức lại chính quyền ở Trung ương, vua Minh Mạng đã sắp
xếp lại chính quyền địa phương. Cả nước được chia làm 30 tỉnh và một phủ Thừa
Thiên để quản lý vùng kinh đô. Bắc Kỳ có 13 tỉnh, Trung Kỳ 11 tỉnh và một phủ,
Nam Kỳ 6 tỉnh. Đơn vị hành chính cấp tỉnh ở ta có từ ngày đó.
Năm 1858
người Pháp nổ phát súng đầu tiên xâm lược nước ta. Từ ngày đó , người Pháp đã
ép Triều Nguyễn phải lần lượt ký nhiều hiệp ước bán dần nước ta cho Pháp. Cuối
cùng là Hiệp ước Pa tơ nốt 1884. Theo các hiệp ước, Nam Kỳ là thuộc địa, Bắc Kỳ
là đất bảo hộ, Trung Kỳ là đất tự trị.
Sáu tỉnh
Nam Kỳ đã được người Pháp chia nhỏ thành nhiều tỉnh theo quy định của người
Pháp.
Đất Trung
Kỳ là vùng đất tự trị nên người Pháp không can thiệp nhiều, các tỉnh cơ bản giữ
nguyên, chỉ cắt nhiều phần đất của các tỉnh Thanh Hoá , Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng
Bình, Quảng Trị sang nước khác theo nghị định hoạch định biên giới 3 nước của
Toàn quyền Đông Dương và chuyển phủ Ninh Thuận của tỉnh Bình Thuận thành tỉnh
Ninh Thuận .
Đất Bắc Kỳ
là bị xáo trộn nhiều nhất. Đây là vùng đất có nhiều cuộc nổi dậy của tất nhiều
dân tộc chống lại thực dân Pháp, cả của người Kinh và người miền núi, như là
các cuộc nổi dậy của Hoàng Hoa Thám, Đốc Ngữ, Đốc Tít…. Cho nên buổi đầu người
Pháp dùng chính quyền quân sự để cai trị, lập ra 5 đạo quan binh. Sau khi đã
bình định được phong trào chống đối, họ bắt đầu chia lại tỉnh. Bằng chính sách
“chia để trị” họ đã chia nhỏ Bắc Kỳ 13 tỉnh thành hơn 30 tỉnh. Có lúc cụ Nguyễn
Khuyến đã đếm được có đến 36 tỉnh, thể hiện trong một vế đối gửi mừng bà me Tây
Tư Hồng:
“Có tàn,
có tán, có hương án thờ vua; danh tiếng lẫy lừng 36 tỉnh “. Cụ muốn nói lên sự
nổi tiếng trên toàn đất Bắc Kỳ của bà me Tây lúc đó.
Bắc Kỳ
chia ra trên 30 tỉnh gần như cùng thời thì không khỏi bất cập, áp đặt và tuỳ tiện
khi đặt tên. Thời đó có những tên tỉnh nghe rất buồn cười sau đó đã phải sửa lại,
nhưng cũng có những cái tên vẫn dùng cho tới ngày nay. Người Pháp thời đó có
cách đặt tên theo nơi đóng dinh của quan cai trị đầu tỉnh.
Năm 1896,
khi nội thành Hà Nội và vùng phụ cận trở thành nhượng địa của Pháp, người Pháp
quyết định chuyển các cơ quan cai trị của phần còn lại của tỉnh Hà Nội cũ về
làng Đơ thuộc huyện Thanh Oai. Làng này có cây cầu bắc qua sông Nhuệ lợp ngói rất
đẹp. Mọi người gọi là cầu Đơ. Tỉnh đường đóng ở bên cạnh cầu Đơ cho nên người
Pháp đặt tên cho vùng đất còn lại của tỉnh Hà Nội xưa là tỉnh Cầu Đơ! Sau này (năm
1904) quan Tổng đốc cai trị tỉnh Cầu Đơ là người có học mới xin đổi lại là tỉnh
Hà Đông!
Tên của tỉnh
Hoà Bình xưa nghe cũng vui. Người Pháp thấy tỉnh Hưng Hoá quá rộng lớn, phải
chia nhỏ làm nhiều tỉnh. Khi khảo sát thấy có nhiều huyện của tỉnh là vùng đất
đa phần là người Mường, bên Lạc Sơn, Lạc Thủy của tỉnh Ninh Bình cũng là vùng đất
người Mường. Họ mới quyết định gộp các vùng đất này lại lập một tỉnh mới lấy
tên là tỉnh Mường. Sau đó tỉnh đường đóng ở chợ Bờ, để thống nhất với cách đặt
tên chung, tỉnh đổi tên là tỉnh Chợ Bờ. Tỉnh lỵ đóng ở một phố núi heo hút, bị
nghĩa quân Đốc Tít tập kích chiếm tỉnh đường giết chết phó công sứ người Pháp.
Chính quyền Pháp phải di chuyển tỉnh đường về xuôi,về xã Hoà Bình cách đó khoảng
30km. Tên Hoà Bình có từ đó. Cũng may Hoà Bình là một cái tên đẹp nên không bị
đổi!
Tên của tỉnh
Lào Cai cũng là chuyện nhiều người bàn. Đến bây giờ có người thì nói Lào Cai,
người thì gọi Lao Cai, có người lại nói là Lào Kay hoặc Lao Kay. Nguyên nhân
cũng vì nguồn gốc cái tên của nó! Tỉnh Lào Cai thời Pháp là một phần phủ Quy
Hoá và một phần phủ An Tây tỉnh Hưng Hoá thời Minh Mạng. Người Pháp thấy đây là
vùng đất trọng yếu nên lập nên một đạo quan binh, trải dài dọc biên giới từ
Simacai đến Phong Thổ . Sau khi tình hình ổn định thì dân sự hoá, đổi gọi là tỉnh
Lao Cai (Lào Cai, Lao Kay, Lào Kay).
Tên đó xuất
phát từ một xóm phố do người Hoa xâm cư lập nên bên ngã ba sông Hồng với suối Nậm
Thi trong lãnh thổ Đại Việt. Ít lâu sau một số người Việt, người Tày, người
Nùng cũng di cư đến và lập nên một khu chợ buôn bán ở phía hạ lưu sông Hồng
cách đó vài km. Dân ở xóm phố bên ngã ba Nậm Thi phần lớn nói tiếng Quan hỏa ,
vỗ ngực tự xưng mình là dân phố đến trước, nói mình là lão nhai ( theo nghĩa
Hán Việt là phố cũ ) dân phố lập sau là tân nhai, dân phố mới, từ đó có tên Phố
Mới ngày nay.
Chữ lão
nhai nói theo tiếng Quan Hoả, tiếng Tày Nùng, tiếng Mông thành ra Lao Cai và
các biến thể như trên. Khi lập đạo quan binh và chuyển thành tỉnh, lỵ sở của tỉnh
đóng ở xóm phố cũ nên tên tỉnh cũng gọi theo tên xóm phố cũ, tỉnh Lao Cai (Lào
Cai, Lào Kay, Lao Kay, Lão Nhai). Tên đó đã được dùng để gọi cho cả một vùng
biên cương rộng lớn vốn xưa cha ông ta đã có những cái tên gọi rất đẹp và rất ý
nghĩa. Cái tên người Pháp đặt chỉ xứng để đặt tên cho một khu phố hoặc thị trấn,
cùng lắm là một thị xã.
Thật là một
cách đặt tên rất áp đặt, tuỳ tiện và hồ đồ của người Pháp.
Cách đặt
tên đó cũng được người Pháp áp dụng cho nhiều tỉnh thành khác ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ
xưa! Có nhiều tên nay vẫn được dùng.
Nhà nước
ta đang thực hiện một công cuộc cải cách hành chính thật sự to lớn để mở ra cho
Việt Nam một kỷ nguyên mới, một thời kỳ phát triển mới của dân tộc. Mong rằng lịch
sử sẽ ghi nhận đây là cuộc cải cách hành chính thứ 3 thành công ở Việt Nam.
Mong rằng tên của một tỉnh mới sẽ kế thừa truyền thống dân tộc, kế thừa di sản
văn hóa của tổ tiên, loại bỏ những tàn tích không phủ hợp của thời kỳ thực dân,
thể hiện khí thế đi lên của kỷ nguyên mới!
Mong chờ một kỷ nguyên mới.