THẮP NỖI VẮNG XA BẬP BÙNG TỪNG CON CHỮ
LÊ THIẾU NHƠN
Sau một thời gian chống chọi bạo bệnh, nhà
thơ Nguyễn Thụy Kha, đã qua đời lúc 10h45 ngày 13/3 tại Hà Nội, hưởng thọ 77 tuổi.
Mặc dù tung hoành trên nhiều lĩnh vực, nhưng tinh thần sáng tạo đậm nét nhất của
ông vẫn nằm ở lĩnh vực thi ca.
Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha, với đám đông hâm mộ, quen thuộc
nhất là vai trò bình luận âm nhạc trên các show truyền hình. Nhà thơ Nguyễn Thụy
Kha, với đồng nghiệp cầm bút, lại quen thuộc nhất là hình ảnh lãng tử rong chơi
luôn rộn ràng giữa các cuộc vui. Từ bài thơ đầu tiên “Nắng Bến Giằng” in trên
báo Quân Đội Nhân Dân ngày 13/5/1974 đến khi trút hơi thở cuối cùng, ông có nửa
thế kỷ say đắm với thi ca. Tài năng của ông và cốt cách của ông, đều hiển lộ
qua thi ca. Vì vậy, đọc thơ Nguyễn Thụy Kha có thể mường tượng những ngày ông
đã sống và có thể sẻ chia những niềm riêng ông gửi lại dương gian.
Rất nhạy bén với những yếu tố thời sự và các sự kiện lịch sử, nhà thơ Nguyễn Thụy Kha không bao giờ e ngại giới hạn đề tài gây trở lại cho cảm hứng. Ông có một vệt tác phẩm gọi là “trường ca ngắn” như “Lòng chảo” viết về Điện Biên Phủ, “Cực sóng” viết về tàu không số trên biển, “Biến tấu Souliko” viết về nữ liệt sĩ Đặng Thùy Trâm, “Màu Quảng Trị” viết về bom đạn 81 ngày đêm bảo vệ thành cổ năm 1972, “Hà Nội tháng chạp nóng” viết về trận B52 ném xuống phố Khâm Thiên, “Gió Tây Nguyên” viết về giai đoạn mở màn giải phóng miền Nam, hoặc “Mùa xuân trắng” viết về chiến dịch chống lại bọn diệt chủng Pol Pot…
Thế nhưng, nhìn một cách tổng quang, thơ Nguyễn Thụy Kha chia làm ba mảng
chính. Thứ nhất, thơ viết cho cố hương “nhớ thương Cát Dài, đợi chờ Cát Cụt”.
Thứ hai, thơ viết tặng các bóng hồng được gọi trìu mến là “em”, là “cưng”. Thứ
ba, thơ viết về thân phận những người lính thời bom đạn và thời hậu chiến.
Sinh ngày 7/10/1949 tại Hải Phòng, nhà thơ Nguyễn Thụy
Kha dành một góc riêng cho đất cảng cũng không có gì khó hiểu. Không chỉ dồn
vào một tập “Mẹ cửa biển”, Hải Phòng hiện diện đều đặn suốt hành trình thơ Nguyễn
Thụy Kha. Đó là một vùng trời tuổi thơ “Về Hải Phòng về lại quê xưa/ Cha mẹ
nghèo căn nhà đã cũ/ Gác xép hẹp bụi phủ dày quá khứ/ Bể nước sâu lắng đọng nắng
mưa qua”. Đó là một ký ức thanh xuân xa nhà nhập ngũ “Bao năm rồi từ buổi con
đi/ Mẹ vẫn ủ trong lòng mình hy vọng/ Bao năm rồi từ buổi chia ly/ Nỗi nhớ thắp
một dáng hình đất cảng”. Ông tâm niệm “Suốt đời đáy tâm hồn sâu hút/ Để Hải
Phòng mãi cập bến bờ tôi” nên chốn chôn nhau cắt rốn nhiều ưu tư “Biển lớn lao
sao vô vị thế này/ Không rửa sạch nổi kiếp người lấm láp” vẫn bao phen khiến
ông thảng thốt “Đồ Sơn đấm thẳng tôi một cú/ Mạnh và phóng túng Đường thi”.
Thơ tình của Nguyễn Thụy Kha cũng có nhiều biến chuyển
theo năm tháng. Sau bài thơ “Không đề” viết tháng 5/1977 được nhiều bạn trẻ ưa
thích: “Đưa người yêu qua nhà người yêu cũ/ Rơi cơn mưa ban trưa/ Chợt thấy
mình tách làm hai nửa/ Nửa ướt bây giờ, nửa ướt xa xưa”, ông viết về những rung
động đôi lứa bằng nhịp phách phức tạp hơn “Ta đã thả xuống đây nhiều nồng nàn/
Nhận về một tình đầu tan vỡ/ Hoa ớt thương ai màu cam chín ngỏ?”. Nhân vật trữ
tình không chỉ trung tính là “em”, mà ông có cả một tập thơ “Hiền” để tặng người
vợ ân nghĩa tào khang và một tập thơ “Cưng” theo cách gọi trìu mến của người miền
Nam. Trong thơ Nguyễn Thụy Kha, lương duyên thường dùng sự độ lượng để bảo chứng
cho sự đổ vỡ “Anh thắp nỗi vắng xa bập bùng từng con chữ/ Mong câu thơ nguôi bớt
nỗi đớn đau em”.
Dù đôi lúc ngoa ngôn trình diễn “Xin đông lạnh mất mát
em/ Xuất khẩu về quá khứ”, nhưng thơ tình Nguyễn Thụy Kha vẫn mang đến cho công
chúng những chấp chới rung động, khi mông lung trống vắng “Chiều không em thật
buồn/ Cây nối cây mà màu xanh cô đơn”, khi yếu đuối mơ màng “Anh lúc nào cũng sắp
ngã vào em/ Lá lại buông mình làm rối cả chiều lên”. Nương tựa vào cảm giác
mong manh “Mắt em như bủa lưới/ Kéo anh lên thuyền tình”, ông tìm được đáp số
cho những tơ vương “Em mong manh như một cánh buồm/ Lướt qua mọi hiểm nguy bất
chợt/ Sự dũng cảm đôi khi chính là sự yếu ớt/ Một nụ cười mềm lại mọi dữ dằn”. Thậm
chí, ông biết chấp nhận thực tế “Đất lấp dần sông, sông lấp dần ngày/ Em lấp dần
anh, tình lấp dần tài” để thấu hiểu những chia lìa, những xót xa “Em cuống cuồng
chạy chợ ngược xuôi/ anh cũng chẳng khác chi lưng cúi gập vào đời/ mỗi người bị
cuốn đi trong vòng quay cuồn cuộn/ mấy mộng mị cũng dần dần rơi rụng/ ráo hoảnh
rồi những giọt tình xưa/ ráo hoảnh chẳng còn tiếc thương gì nữa”.
Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha tham gia cuộc kháng chiến chống
Mỹ với tư cách một chiến sĩ binh chủng thông tin. Năm 1990, ông xuất ngũ với
quân hàm thiếu tá và hành nghề tự do để mưu sinh “Tôi cởi những thập niên máu
xanh/ Đến bây giờ máu tôi đỏ lại”. Nỗi ám ảnh khói lửa không rời xa ông, dẫu có
được phút giây thanh thản: “Người lính trú vội mái hiên/ Rồi lại đi mảnh ni
lông khoác chéo/ Anh lẫn vào mưa lúc nào chẳng hiểu/ Ngỡ mưa dệt nên anh/ Có một
đứa trẻ con từ trong anh chạy nhanh/ Nhập vào đám trẻ con trần truồng đang hò
reo giữa phố/ Có một người nông dân từ trong anh hớn hở/ Xòe tay đồng hạn đón
mưa/ Có một người lính Trường Sơn từ trong anh năm xưa/ Vội vã vắt áo quần ướt
mưa hơ lửa/ Có một người... có một người nào nữa/ Người lính bước nhanh/ Anh và
mưa cứ như thế đã bao lần”.
So với thế hệ đồng trang
lứa, nhà thơ Nguyễn Thụy Kha định vị chậm hơn. Nhược điểm ấy cũng là ưu điểm,
vì độ lùi những gian khó và hy sinh giúp ông nhận diện rõ ràng hơn sự dự phần của
bản thân “Giật cửa tận đền đài/ Chiến tranh/ Lôi con người ra
ngoài yên tĩnh/ Một thế hệ chợt rùng mình thành lính…/ Một thế hệ hiến dâng trọn
vẹn, hiến dâng vô danh/ Cắn chặt răng không khóc/ Cháy thành lửa, tắt thành
vuông cỏ mọc/ Chín muộn như không thể chín tự nhiên” và sự thử thách của đời sống:
“Cứ thế gió chà đi xát lại/ Trên Tây Nguyên chiều cao trần trụi/ Để tìm ra
trung thực con người”.
Ông viết về chiến tranh bằng hai góc đô. Một góc độ hồi tưởng “Tôi đã gặp những thiếu nữ dãi dầu/ Gùi trên lưng từng tạ hàng vượt dốc/ Sống như con trai, chịu đựng bằng con trai/ Các em cứ bước chậm về phía trước/ Người tải hàng, người giao liên, người làm anh nuôi/ các em đốt lửa ấm tổng đài binh trạm/ cũng các em tháng năm cuốc xẻng/ dọc Trường Sơn mưa nắng bập bùng/ các em sốt run run, các em hát run run/ những năm tháng chỉ biết mình như lính/ không tình yêu không đàn ông/ những năm tháng các em hồn nhiên dâng hiến”. Và một góc độ tự vấn: “Tôi đã gắng lùi, gắng lùi thật mình/ Để nhìn rõ hơn năm tháng xưa tầm vóc/ Chưa thấu đến tận cùng thời gian sao vội bước/ Thế kỷ sắp vượt qua cái chớp mắt kinh hoàng/ bao dấu hỏi và bao dấu chấm than/ chắc một mai cháu con sẽ hiểu/ giữa thanh bình muôn sau đau thương dần lắng dịu”.
Giữa góc độ hồi tưởng và góc
độ tự vấn, Nguyễn Thụy Kha có được những ấn tượng riêng biệt, từ bùi ngùi “Đi
qua đời lính dài thử thách/ đôi khi muốn gục ngã bên đường/ mỗi đồng đội lại
như cột mốc/ như cây bên lối mòn đỡ tôi thuở Trường Sơn” đến sẻ chia “Bao người
lính như anh dần khuất xa rồi/ bệnh ung thư gậm nhấm từng số phận/ chiến tranh
còn di căn đeo đẳng/ vết thương hồi nào nhức nhối nơi nao”.
Bằng thái độ tin cậy hòa bình “mây vẫn bay như không hề
thuốc độc/ mây vẫn bay như không hề đạn bom”, nhà thơ Nguyễn Thụy Kha xác định
“Nếu lòng tôi lúc yêu thương nguội tàn/ Chắc cũng không còn rưng rưng nỗi niềm
đồng đội”. Dẫu lắm phen mâu thuẫn trên con đường rong ruổi kiêu bạc “sao ta
không dám nổ tung như hạt nhân/ cứ cam phận một kiếp người hèn hạ/ sao ta không
dám vỗ sóng cùng biển xanh/ cứ phẳng lặng một cánh buồm yêu ả”, ông vẫn chọn lựa
được một thái độ ứng xử “Anh thôi miên mùa thu/ Cơn mưa mờ như khóc/ Lạnh lắm
trời nhanh mơ/ Và mắt chưa kịp ướt” để an ủi cái đẹp mong manh “Mãi chôn vùi
quá khứ xót xa/ Rêu mốc mờ vắng tanh lăng tẩm cũ/ Chỉ áo dài trắng, áo dài thiếu
nữ/ Sông giữ gìn như ngọn lửa đầu tiên”.
Tài hoa và đắm đuối, la đà và nồng nhiệt, nhà thơ Nguyễn Thụy Kha thổ lộ “Ta đâu đa mang chỉ thèm khát sống/ Nên lắm đau lắm xót cũng mình ta/ Cũng mình ta chờ đợi tới sương mờ/ Thu như cũ, giá lạnh sao lại mới?”. Thơ ông dù nghiêm ngắn khuôn khổ hay bay nhảy thể thức, vẫn rất chú trọng nhịp điệu để mỗi ý tưởng trực diện lay gọi thao thức độc giả. Cho nên, nhà thơ Nguyễn Thụy Kha giã biệt dương gian như một khoảnh khắc “em chìm trong tóc xõa, như đã lãng quên rồi”, thì tác phẩm của ông vẫn tiếp tục xao xuyến những người còn ở lại “Chắp tay lạy cả biển xa/ Núi cao đồng ruộng hiền hòa quê hương/ Chắp tay lạy cả mười phương/ Phương nào cũng có bạn thương người chờ/ Chắp tay khấn một câu thơ/ Thời gian khép lại ngày mơ đến gần”./.