“Ông già gân” Nguyễn Chính (sinh năm 1944) vẫn vui dọc đường thơ mà hát nỗi “bất bình tắc minh”, sau 60 năm phiêu bạt và xênh xang đời lính: Thơ tôi gánh gánh gồng gồng/ Mấy mùa chinh chiến má hồng dở dang.


THƠ CỦA “ÔNG GIÀ GÂN” NGUYỄN CHÍNH

(Đọc “Nắng đã qua thu” của Nguyễn Chính, NXB Hội Nhà văn quý 1 năm 2025)

ĐẶNG HUY GIANG

Bất phẫn bất phát. Bất bình tắc minh. Dù chưa đạt đến độ “bất phẫn bất phát”, nhưng ở một chừng mực đáng kể, Nguyễn Chính vẫn thuộc diện “bất bình tắc minh”, tức là một vật không được bình yên thì kêu lên, một vật không được thế quân bình thì phát ra tiếng kêu. Ấy là tình cảnh, tình thế và cả tâm thế nữa của Nguyễn Chính khi cầm bút làm thơ. Tiếng kêu ấy, cũng là tiếng thơ của những dồn nén mang tính tự nhiên nhi nhiên vậy.

Đấy là cảm giác bồng bềnh, giữa biển mây bồng bềnh, giữa trời đất bồng bềnh của một người mất trọng lượng, cho dù đã “Vội vàng dang rộng vòng tay” thì “Nào đâu trời đất? Vẫn mây bồng bềnh” (“Bồng bềnh”). Đó là cảm giác  chán chường khi chứng kiến những gì của ngày qua đã mất hoặc nếu còn, cũng chỉ tồn tại ở dạng thức cái bên ngoài, cái vỏ bọc: “Bên đường vẫn con chó đá/ Canh làng! Sao chẳng còn quê?” (“Sao chả còn quê”).

Đấy là cảm giác của một người “lực bất tòng tâm”: “Nắm sao/ được/ hạt/ mưa bay/ Cứ tan/ tác/ vỡ/ những ngày/ đã qua...” (“Hứng hạt mưa rơi”). Đấy là cảm giác không yên luôn thường trực tự bên trong: “Còi hú như điên như dại/ Xe cộ dạt ra hai bên/ Đi cạnh thai phụ, tôi hỏi:/ Nằm trong bụng mẹ, bé có bình yên?” (“Nỗi lo”) và cả tự bên ngoài nữa: “Mầm xanh ươm mưa  nắng/ Xin vái lạy Hàng Dương/ Bao lớp người xương trắng/ Hỏi có yên lòng không?” và “Ngày tháng theo nhau đi hết/ Còn đây ngôi chùa an nhiên/ Đêm không trăng, đêm giá rét/ Cửa thiền có lạnh giá không?”.

Đấy là sự dồn nén đến mức người viết phải giật mình, thốt lên: “Vật chất lên đời, tinh thần xuống cấp/ Sự thật trên đời nghiêng ngả nghiêng” (“Gió cuốn mây bay”). Gần đây nhất, khi hay tin cầu Phong Châu sụp đổ, Nguyễn Chính lại giật mình đến mức: “Bão giông rồi cũng qua thôi/ Lòng người giông bão, biết đời nào yên” (“Phong Châu”).

Trong vệt thơ này, “Cuối chiều” là một tứ thơ lạ. Nguyên văn:

Đời cứ mờ mịt dần

Cái thấy lại không thấy

Cái không thấy lại thấy

Ngày xưa và hôm nay.

 

Thế giới ở ngoài tầm tay

Không

buồn

vui

một mảy may

           cuối chiều.

Cuối chiều, tất cả đều mờ mịt dần, từ ngày xưa đến hôm nay, “Cái thấy lại không thấy/ Cái không thấy lại thấy”. Mọi thứ diễn ra như một nghịch lý. Một lần nữa, cảm giác “Thế giới ở ngoài tầm tay” lại trở thành hiện thực, khiến cho con người ta buộc phải vô cảm đến nỗi: “Không/ buồn/ vui/ một mảy may/ cuối chiều”. Đấy là những cảm giác thời cuộc, cảm giác của một người luôn có sự tỉnh thức từ sự bất an, không muốn nói cũng phải nói.

Trong “Nắng đã qua thu”, Nguyễn Chính có ba chi tiết thơ đồng thời là ba phát hiện đáng ghi nhận. Phát hiện thứ nhất thuộc về “Nước bốn nghìn năm trên đôi chân” trong “Xuân trên cao tốc”. Phát hiện thứ hai thuộc về “Đất nước tôi vậy ư/ Nhìn người bằng cái bụng” trong “Con mắt xa vời”. Phát hiện thứ ba thuộc về “Em không là của tôi/ Để cả đời mơ ước/ Cái mà như không được/ Mới thật là cuộc đời” trong “Cái thật của cuộc đời”.

Nguyễn Chính là người phục thiện. Sau khi đọc bài kệ nổi tiếng “Đừng giẫm bước Như Lai” của Thiền sư Quảng Nghiêm (1121 - 1190}, ông viết bài “Ngượng”:

Hí hửng như phát hiện ra

“Không tìm tiên phật, tháp ngà, thánh nhân

Đến khi đọc sư Quảng Nghiêm

“Đừng hướng Như Lai – lối đã thành”

Ngượng!

Điều đáng ngạc nhiên là Nguyễn Chính - người sở hữu những câu thơ đáng nhớ trên lại là một người vẫn gìn giữ những nét cố hữu rất nhà quê trong mình. Không nhà quê, sao trong “Nức nở hương quê”, ông viết:

Quên làm sao được bí bầu

Quên làm sao được giàn trầu, mẹ ơi!

Quên làm sao được bình vôi

Thương con ra trận mẹ tôi nhai trầu.

Không nhà quê, sao trong “Ngơ ngác”, ông viết:

Cái mùi khoai nướng bốc hơi

Đêm đông giá lạnh đã đời nhà quê

 và:

Bấy nhiêu thôi cũng nên quen

Mối tình khoai nướng nhọ nhem thơm hoài.

Không nhà quê, sao trong “May ra..”, ông viết:

Hết rồi...cả những giọt sương

Người đâu đến cả mắt lườm cũng duyên

May ra còn mái đình nghiêng

Cái răng em khểnh, cái phiên chợ nghèo

Cùng với những câu tình tứ trong “Cái ngày đang xuân”:

Đầy trời lất phất mưa bay

Còn dan díu mãi cái ngày đương xuân.

Những chữ “đã đời nhà quê” và “mối tình khoai nướng nhọ nhem thơm hoài” là những vẻ đẹp đời thường vừa có phần dân dã, vừa có phần quê kiểng, vừa có phần hiếm có trong đời sống hiện đại ngày nay.

Tác giả cũng tự họa chân dung mình qua “Lão giả”: “Bát thập rồi, nhìn cái gì vẫn thích/ Hỏi trời: Ai dịch nổi thiên thư?/ Lão giả qua, quên đời bên bến nước/ Dận quần bò, nghe nhạc, hát vu vơ...” Đọc bài thơ này, mới thấy cái người 80 tuổi Nguyễn Chính đúng là “ông già gân” thật! Nhưng “ông già gân” ấy vẫn là một người lính già, luôn ám ảnh bởi màu cỏ úa và màu cờ đỏ một cách trực cảm và trực giác. Khi đi qua cuộc chiến tranh, ông tự đặt ra câu hỏi cho mình: “Áo màu cỏ úa trầm tư/ Màu cờ đỏ ấy đỏ từ máu ai?” (“Chiến tranh chưa phai”). Ông luôn tự làm chủ mình ngay cả trong cuộc vui: “Méo tròn thì cũng tự ta/ Tươi/ tươi/ héo/ héo/ lá hoa thế rồi/ Rượu bầu dốc ngược phận người/ Buồn vui cũng tự khóc cười mà ra” (“Tự...”).

Và “ông già gân” Nguyễn Chính (sinh năm 1944) vẫn vui dọc đường thơ mà hát nỗi “bất bình tắc minh”, sau 60 năm phiêu bạt và xênh xang đời lính:

Thơ tôi gánh gánh gồng gồng

Mấy mùa chinh chiến má hồng dở dang.