Khi thơ ca có nhịp điệu tồn tại phổ biến trong trong mọi nền văn hoá của con người, liệu nhịp thơ có liên quan đến nhịp sinh học, thông qua trung gian là hoạt động của não không? Vì sao con người lại thích thú khi đọc thơ có nhịp và vần?
Năm 1985, nhà thần kinh học Ernst Pöppel (ĐH Munich, Đức) và nhà thơ Frederick Turner (ĐH Texas, Dallas, Mỹ) đã cùng giải đáp câu hỏi này trong tiểu luận “Nhịp thơ, não bộ và thời gian” – một nghiên cứu được trao giải thưởng của Hiệp hội Thơ Hoa Kỳ, và góp phần đặt nền móng cho sự ra đời của phân ngành thẩm mỹ học thần kinh (neuroesthetics).
Là con của
hai nhà nhân học văn hoá có tư tưởng Marxist, và dành tuổi thơ để sống cùng cha
mẹ trong các chuyến nghiên cứu điền dã ở Châu Phi, nhà thơ Frederick Turner
luôn khao khát khám phá các đặc tính phổ quát của con người thông qua sự kết hợp
giữa nghệ thuật và khoa học. Với động lực này, ông đã viết luận án tiến sĩ mang
tên “Shakespeare và bản chất của thời gian” vào năm 1967, nhờ đó thu hút sự chú
ý của Hiệp hội Quốc tế về Nghiên cứu Thời gian (ISST) – một tổ chức kết hợp các
nhà khoa học chuyên nghiệp, các nghệ sĩ và các nhà nhân văn trong công cuộc
nghiên cứu thời gian từ góc nhìn vật lý, sinh học và xã hội.
Sau khi
gia nhập ISST, Turner bắt đầu nghiêm túc nghiên cứu sự tồn tại của nhịp thơ
trong các nền văn hoá trên toàn thế giới. Ông nhận thấy mọi xã hội đều có thơ,
thơ luôn được ngắt nhịp, và mỗi nhịp thơ thường dài không quá 3 giây, dù xã hội
được khảo sát có hay chưa có chữ viết.
Một thành
viên khác của ISST, là nhà thần kinh học Ernst Pöppel, đã cho Turner biết rằng
chu kỳ 3 giây này trùng với chu kỳ tổ chức thông tin thính giác trong não bộ.
Trong các nghiên cứu trước đó, Pöppel và các cộng sự tại Munich lập luận rằng rằng
nếu da người có thể cảm nhận cả sóng điện từ (như nhiệt) lẫn sóng cơ học (như lực
từ một cú đánh), thì mắt được chuyên biệt hoá để cảm nhận phổ sóng điện từ mà
con người gọi là ánh sáng, còn tai được chuyên biệt hoá để cảm nhận phổ sóng cơ
học họ gọi là âm thanh.
Tai khác
da ở mức độ tinh tế của cảm nhận: nó có thể phân biệt các âm thanh khác nhau, tức
là các tần số khác nhau của sóng cơ học. Và vì tai chỉ phân biệt được các âm
thanh nếu chúng không vang lên cùng lúc – khác với mắt nhìn được nhiều màu sắc
hiện lên cùng lúc – tai là giác quan gắn chặt nhất với trải nghiệm về thời
gian. Vì vậy, trải nghiệm về thời gian của con người liên quan mật thiết đến
quá trình xử lý thông tin thính giác trong não bộ.
Bằng thực
nghiệm, nhóm của Pöppel ghi nhận rằng thính giác mang đến cho con người năm kiểu
trải nghiệm thời gian khác nhau, đặt nền tảng cho năm ý niệm khác nhau về quan
hệ giữa các sự vật. Nếu hai âm thanh khác nhau về tần số vang lên cách nhau dưới
0,003s, tai người sẽ cho rằng chúng vang lên đồng thời và không thể phân biệt
chúng với nhau – trải nghiệm này đặt nền tảng cho cảm giác về sự hợp nhất. Nếu
tăng khoảng cách thời gian giữa hai âm thanh lên một chút, từ 0,003-0,03s, tai
người bắt đầu cảm nhận rằng có hai âm thanh khác nhau đang vang lên, nhưng
không xác định được âm thanh nào đến trước – một trải nghiệm đặt nền tảng cho
việc phân biệt hai sự vật.
Nếu tiếp tục
tăng khoảng cách thời gian này lên mức 0,03-0,3s, con người phân biệt được
trình tự trước-sau giữa hai âm thanh – từ đó có thể hình thành những giả định về
mối quan hệ nhân quả giữa chúng – nhưng không kịp phản ứng với âm thanh thứ nhất
trước khi âm thanh thứ hai vang lên. Nếu hai âm thanh vang lên cách nhau từ
0,3-3s, họ kịp phản ứng trước khi âm thanh thứ hai vang lên, nhưng đây thường
là phản xạ chưa mang tính chủ đích. Não người cần 3s để gộp các tín hiệu thời
gian khác nhau lại làm một để xử lý, nhằm hình thành nhận thức về cái hiện tại
đang diễn ra – thứ đặt nền tảng cho mục đích của hành vi.
Như vậy,
con người trải nghiệm các khoảnh khắc hiện tại dài 3s, và thời gian trong cảm
nhận của con người là các khoảnh khắc 3s nằm nối tiếp. Những thứ nằm ngoài hai
đường ranh giới phân định 3s này tạo thành trải nghiệm về ký ức và dự định, hiện
tại và tương lai. Trải nghiệm thính giác đặt nền tảng cho một lượng lớn các ý
niệm mà con người dùng để nhận thức và tư duy về thế giới.
Trong bài
luận viết chung, Pöppel cho rằng những nhận định của mình phù hợp với nhiều bằng
chứng thực nghiệm. Chẳng hạn, khoảng 3s một lần, một người đang nói sẽ dừng lại
vài mili giây để quyết định cú pháp và từ vựng mình dùng trong 3s tiếp theo.
Người ta thường đọc mỗi âm tiết – đơn vị cơ bản của ngôn ngữ – trong 0,3s,
tương ứng với khoảng thời gian tối thiểu cần có để não phản ứng trước âm thanh.
Và như nghiên cứu của Turner cho thấy, thơ có nhịp tồn tại trong mọi nền văn
hoá, với mỗi nhịp thơ mất trung bình 2,5-3,5s để đọc.
Như vậy,
thơ sắp xếp nhiều loại thông tin khác nhau thành các nhịp, sao cho mỗi nhịp vừa
đủ để xây dựng một khoảnh khắc hiện tại trọn vẹn, qua đó làm sẵn một lượng lớn
công việc mà bình thường bộ não phải tự làm. Nhịp góp phần tạo nên cảm giác trọn
vẹn mà thơ mang lại. Thêm vào đó, nhịp cũng tăng khả năng ghi nhớ: khi đọc một
bài thơ có nhịp, ta có thể nhớ lại chính xác cảm xúc trong lần đầu đọc nó, bởi
các hoạt động của não bộ trong thời điểm đó sẽ được tái hiện nguyên vẹn qua
trình tự của các nhịp thơ. Thơ là thông tin được tiêu hoá sẵn.
Thêm vào
đó, thơ cũng tận dụng nhiều đặc tính khác của não bộ. Vào thời điểm đó, khoa học
đã ghi nhận rằng bộ não hoạt động cùng lúc theo hai khuynh hướng đối nghịch
nhau: ở phương diện “bảo thủ”, nó quen áp các mô hình mà mình xây dựng lên thực
tế và cắt gọt nhận thức về thực tế sao cho khớp với các mô hình; ở phương diện
tò mò, nó yêu thích các bất ngờ (chẳng hạn: chỉ những vật chuyển động hoặc những
tương phản về ánh sáng và màu mới thu hút sự chú ý của thần kinh thị giác).
Vì các bài
thơ hay thường vừa lấy một nhịp điệu cố định làm xương sống, vừa phát triển các
biến tấu về vần, điệu và các phép ẩn dụ gây bất ngờ, nó khiến não của người đọc
thơ “tự thưởng” cho các tiên đoán về nhịp của mình bằng cách tiết ra endorphin
– một nhóm hormone mang lại cảm giác hạnh phúc, đẩy lùi căng thẳng và lo âu. Hiện
tượng này không chỉ xảy đến do vần nhịp, mà còn do ý nghĩa của bài thơ: các
phép ẩn dụ của thơ giúp liên kết các ý niệm, cùng các mảnh rời rạc của đời sống
lại, sao cho liền mạch với các giá trị chân-thiện-mỹ đang dựng nên mô hình tổng
thể mà một người áp lên thế giới của mình. Thơ vừa khuyến khích con người cải tạo
thế giới theo lý tưởng của mình, vừa giúp họ từng bước điều chỉnh lý tưởng cho
phù hợp với thực tế.
Viện dẫn
các nghiên cứu của Barbara Lex về mối quan hệ giữa sinh lý não bộ và các bài
thánh ca nghi lễ (vốn là thơ được ngâm vịnh theo điệu nhạc), Pöppel và Turner
cho rằng vì nhịp thơ trùng với nhịp tổ chức thông tin thính giác của não bộ và
giải phóng “hormone hạnh phúc”, thơ có thể đẩy người đọc vào trạng thái thôi
miên nhẹ, sau đó điều chỉnh nhịp sinh học của các cơ quan trong cơ thể thông
qua hệ thần kinh ngoại biên. Không đáng ngạc nhiên, khi nhiều nền văn hoá đã sử
dụng thơ ca để điều nhịp cho các sinh hoạt khác nhau của xã hội: các nghi lễ
mùa vụ, các ngày hội kết duyên, các sinh hoạt sản xuất (như trường hợp của điệu
hò chèo thuyền, hò kéo lúa…).
Tóm lại,
thơ có vần giúp rèn luyện nhiều chức năng quan trọng của não như phân loại
thông tin, ghi nhớ, sáng tạo, nhận thức nhận thời gian, thẩm mỹ và đạo đức, đồng
thời giúp điều hoà nhịp sinh học của cơ thể và nhịp sinh hoạt của xã hội. Từ những
nhận xét này, bài luận kêu gọi duy trì việc dạy thơ có vần trong chương trình
giáo dục cấp phổ thông – một điểm gây tranh cãi vào thời bấy giờ, khi thơ ca
đang mất dần tầm ảnh hưởng và thơ tự do không vần đang thống lĩnh thi đàn Mỹ.
Hai tác giả
cũng gợi ý rằng các bác sĩ tâm lý nên dùng các thực hành đọc và viết thơ làm
phương tiện để trị liệu, và các nhà thơ nên nghiên cứu về nhịp để tác động đến
tâm trí người đọc một cách chủ động hơn. Bài luận của Pöppel và Turner đã trở
thành một trong những văn bản đặt nền tảng cho trào lưu thơ tân hình thức (New
Formalism) ở Mỹ – một phong trào có quan điểm rằng thơ nên trở thành phương tiện
nối liền quá khứ và hiện tại, khoa học và nghệ thuật, cá nhân và xã hội, thay
vì chỉ trưng bày cái tôi hoặc cảm thức cá nhân và chỉ gói gọn trong một giới
chuyên môn ngày càng cách xa quần chúng.
NGUYỄN VŨ HIỆP
Nguồn: Báo Khoa học & Phát triển